Biện pháp tu từ trong bài Chiều tối | Ngữ Văn 11
Câu hỏi: Biện pháp tu từ trong bài Chiều tối
Câu trả lời:
– Nghệ thuật ngắt câu và liệt kê: Hình ảnh “cánh chim” và “đám mây” xuất hiện ở đầu bài thơ tạo nên một cách ngắt câu độc đáo như trong thơ cổ. Những hình ảnh ấy hiện lên cho thấy sự lẻ loi, cô đơn, mệt mỏi của những người tù cách mạng. “Chim mỏi đi rừng tìm chỗ ngủ” cho thấy không gian hoàng hôn đang buông xuống, đè nặng lên cánh chim bé nhỏ, cô đơn. Không gian trở nên hiu quạnh, vắng vẻ qua hình ảnh “Chòm sao lơ lửng giữa không trung”. Cả hai hình ảnh này đều thể hiện sự nặng nề của không gian dần bước vào trạng thái nghỉ ngơi, tĩnh lặng và trong đó, người tù hiện lên cô đơn, nhỏ bé, lẻ loi như cánh chim và đám mây. đó là nó.
– Ẩn dụ qua hình ảnh “lò than rực cháy”: Với Bác, đây không chỉ là ánh sáng của một người thợ rèn đơn thuần, mà đây là ánh sáng của tâm hồn Hồ Chí Minh, tinh thần lạc quan, phong thái ung dung tự tại. , lòng dũng cảm của người tù cách mạng. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Bác hiện lên với thái độ lạc quan, vượt lên hoàn cảnh. Đây là phẩm chất hiện đại của bài thơ, là tinh thần cách mạng kiên cường, bất khuất của vị lãnh tụ vĩ đại.
– Nghệ thuật nhân hoá: “chim mỏi bay về rừng tìm chỗ ngủ”.
Cùng tìm hiểu thêm bài thơ Chiều tối nhé!
1. Vài nét về tác giả Chiều tối
Xem thêm: Biện pháp tu từ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ | Ngữ Văn 11
– Hồ Chí Minh (1890-1969) sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước.
– Thuở nhỏ học chữ Hán, rồi học chữ Quốc ngữ, tiếng Pháp, rất am hiểu văn hóa văn học phương Đông và phương Tây (Trung Quốc) và văn hóa văn học phương Tây (Pháp). chảy trong huyết quản của văn học.
– Quá trình hoạt động cách mạng:
+ Năm 1911: ra đi tìm đường cứu nước.
+ 1918 – 1922: Hoạt động cách mạng ở Pháp, tích cực viết báo, viết sách tuyên truyền chống thực dân và đoàn kết các dân tộc thuộc địa.
+ 1923 – 1941: hoạt động chủ yếu ở Liên Xô, Trung Quốc, Thái Lan.
+ 1942-1943: bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam tại các nhà tù Quảng Tây, Trung Quốc.
+ Ngày 2 tháng 9 năm 1945: đọc Tuyên ngôn độc lập…
⇒ Lãnh tụ vĩ đại đồng thời là nhà văn, nhà thơ lớn với di sản văn học quý giá.
– Tác phẩm chính:
+ các bài chính luận: Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Không có gì quý hơn độc lập tự do (1966) …
+ truyện và kí: Tiếng than của bà Trưng Trắc (1922), Vi Viên (1923), Những chuyện lớn là Varen và Phan Bội Châu (1925).
+ Thơ: tập thơ Nhật ký trong tù và nhiều bài thơ sáng tác ở Việt Bắc
– Phong cách nghệ thuật
+ Hồ Chí Minh coi văn nghệ là một sinh hoạt tinh thần phong phú và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp Cách mạng
+ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến đối tượng
+ Hồ Chí Minh luôn cho rằng tác phẩm văn học phải trung thực.
+ Hồ Chí Minh yêu cầu người viết phải chú ý đến hình thức thể hiện, tránh lối viết cầu kì, xa lạ, nặng nề.
2. Hoàn cảnh sáng tác bài Chiều tối
+ Là bài thơ thứ 31, trích trong “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh
+ Sáng tác vào cuối thu 1942, trên đường từ Tịnh Tây đến Thiên Bảo.
3. Thể thơ của bài thơ Chiều tối.
– Thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.
Xem thêm: Biện pháp tu từ trong bài Từ ấy | Ngữ Văn 11
4. Phân tích bài thơ Chiều tối
– Tác phẩm “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh được viết từ ngày 2 tháng 8 năm 1942 đến ngày 10 tháng 9 năm 1943 khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam giữ vô cớ và bị tra tấn khắp các nhà tù tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trong số 133 bài thơ “Nhật ký trong tù” có những bài ghi lại những khoảnh khắc đáng nhớ trong ngày: Sáng, Trưa, Chiều, Chiều, Chiều, Hoàng hôn, Nửa đêm… Mỗi bài là một bài thơ. cảm xúc trong những ngày “ác mộng”.
– “Chiều tối” (Mộ) là bài số 31 trong “Nhật ký trong tù” số 31. Bài thơ số 32 là bài “Ngủ đêm ở Long Tuyền”. Vậy là ca khúc Chiều tối ghi lại cảnh xóm núi cuối ngày trên đường từ Thiên Bảo về Long Tuyền tháng 10/1942.
Đây là bài thơ gốc:
“Khu rừng giàu có tinh túy,
Cô ấy tự hào về thiên đường,
Hồn ma thiếu nữ làng sơn,
Bao trùm chúa quỷ. “
– Một cái nhìn thoáng qua, một ước mơ thầm kín về một mái ấm, một chốn dừng chân… của nhà thơ trên con đường tha hương xa xứ ngàn dặm được bộc lộ qua bài thơ, đọc mà ngỡ như chỉ là sự miêu tả của sân khấu. buổi tối ở một xóm núi xa lạ.
– Hai câu đầu tả bầu trời cuối ngày. Hai nét “lay động” cánh chim mỏi (chim hỗn tạp) bay về rừng xa, tìm cây ẩn hiện, một đám mây cô đơn lẻ loi (Cô Vân) trôi (lãng đãng). Đoạn thơ hai câu được viết song song, giọng thơ nhẹ nhàng, hơi buồn. Người lính lưu đày ngước mắt lên trời, nhìn chim bay và mây trôi nhẹ mà lòng bồi hồi xao xuyến. Rất tinh tế, những nét vẽ bên ngoài đã thoáng thấy tâm trạng. Câu thơ dịch của Nam Trân tuy không thể hiện chữ “cô” trong “cô Vân” nhưng khá hay:
“Chim mỏi vào rừng tìm chỗ ngủ”.
Mây trôi nhẹ trên không trung ”.
– Hai câu 1 và 2 mang vẻ đẹp cổ điển: tả ít nhưng gợi nhiều, chỉ 2 nét phác (chim bay, mây trôi) nhưng gợi được cái hồn của cảnh vật, ngày tàn, đêm dần buông, sinh vật như đang ở trong một trạng thái nghỉ ngơi và mệt mỏi. Nghệ thuật lấy nét vẽ mặt, lấy động để tả tĩnh được vận dụng sáng tạo. Nhìn chim bay, mây trôi, bạn cảm thấy bầu trời rộng lớn hơn, khung cảnh buổi tối êm đềm và tĩnh lặng hơn. Cảnh chiều tối ở làng núi này vẫn mang tính ước lệ, nó mở rộng những liên tưởng và cảm xúc thẩm mỹ trong mỗi chúng ta,… nhớ về một cánh chim bay trong “Truyện Kiều”: “Con chim ban ngày bay về rừng”. “; nhớ con chim mỏi và hình ảnh người lữ khách trong một buổi chiều se lạnh, hoài niệm:
“Gió ban mai ngàn thổi, chim bay mỏi
Dặm liễu mờ sương, khách bước từng bước
(Chiều nhớ nhà)
– Trở lại với bài “Chiều tối”, đám mây cô đơn lơ lửng trên bầu trời là hình ảnh ẩn dụ về một kẻ tha hương trên con đường dài khổ ải! Ngôn ngữ thơ súc tích, giàu sức biểu cảm, vừa tả cảnh vừa tả tình, nhẹ nhàng mà ấn tượng, có thừa.
– Tiếp nối câu cuối 3-4 từ cảnh mây trời, tác giả nói về cuộc sống của con người nơi núi rừng. Thiếu nữ và cô gái tóc xù là trung tâm của bức tranh này:
“Trong thôn, thiếu nữ bị ma che.
Bao trùm chúa quỷ. “
– Nét vẽ trẻ trung, bình dị, đáng yêu: Cô gái miền núi đang mài ngô. Ba chữ “ma bảo” ở cuối câu ba được lấy lại từ đầu câu 4, với động tác xay ngô nhịp nhàng, đồng thời miêu tả chuyển động tròn đều của cối xay ngô thủ công. Sự cần cù của những cô gái miền núi được cảm nhận và trân trọng. Nghệ thuật điệp ngữ liên tục đã làm cho thơ liền mạch và có tính nhạc. Bài thơ giặc giã: “Cô thôn xóm xay ngô tối”, với 2 chữ đã làm mất đi phong cách thơ Hồ Chí Minh; Chữ “tối” được thêm vào đã bộc lộ ý tứ của bài thơ, còn đâu là tiếng nước ngoài trong bài thơ chữ Hán này?
Các sự vật hiện ra nối tiếp nhau theo dòng chảy của thời gian: Khi xay xong ngô, than đã hồng, sáng, ấm vô cùng. Khi màn đêm buông xuống, chiếc brazier đỏ rực, cảnh tượng thu hút tâm trí người tù bị dẫn đi. Bếp tro lạnh buồn làm sao! ngọn đèn, bếp hồng trong đêm lạnh giá làm sao ấm áp. Hình ảnh thiếu nữ xóm núi xay ngô, thắt bím rực rỡ tượng trưng cho sự sum họp gia đình đã làm vơi đi nỗi cô đơn, vắng lặng. Hướng đến cảnh sinh hoạt bình dị: thiếu nữ mài ngô nhìn bếp lửa, lòng nóng bỏng, chân tay xiềng xích nặng trĩu, chiều tối Bác đã tìm được nơi nương tựa cho tâm hồn. tôi. Dường như sự cô đơn, lẻ loi, lạnh lẽo được xua tan. Thoáng thấy ước mơ thầm kín về một mái ấm gia đình đã đến với nhà thơ trên đường đi đày trong màn đêm buông xuống. Cảm hứng thơ đầy chất nhân văn. Đơn giản mà thơ mộng. Thơ đó là tâm hồn con người và tình người. Hai nét vẽ thiếu nữ đang mài ngô và một người thợ rèn dạ quang là hai nét vẽ giản dị, ấm áp, khỏe khoắn, trẻ trung, làm cho thơ Bác là sự hòa quyện giữa màu sắc cổ điển và chất hiện đại với vẻ bình dị.
– Nhiều bài thơ khác cho thấy trên con đường đày ải gian khổ, người chiến sĩ cách mạng trong “Nhật ký trong tù” hầu như bớt cô đơn, tâm hồn luôn gắn bó với nhịp sống, làm chủ hoàn cảnh, lạc quan yêu đời. Trong hoàng hôn gió lạnh vượt qua gian khổ. Anh cảm động trước tiếng chuông chùa, tiếng sáo của người chăn cừu và bước tới:
“Gió sắc như gươm mài đá núi,
Lạnh như que nhọn đâm vào cành cây
Ngôi chùa xa tiếng chuông thúc giục mọi người nhanh lên,
Trẻ con dắt trâu theo tiếng sáo bay.
(dịch bởi Nam Trân)
– Có lần lâm vào cảnh bị cùm chân, “lợi dụng giá rét để tấn công” nhưng anh vẫn “vượt ngục” và tìm được niềm vui nho nhỏ cho tâm hồn mình: “Bùm sớm, vui nghe xóm hát. ”(Ngủ đêm ở Long Tuyền). Điều đó cho thấy cuộc sống và tự do là khát vọng của anh. Thiên nhiên và con người hiện hữu trong thơ Bác với những nét vẽ đẹp đẽ, giản dị, đáng yêu, là lẽ sống mà Bác đã gắn bó, yêu thương suốt đời.
– “Bữa tối” – một bài thơ dễ thương: màu sắc cổ điển được kết hợp ngầm với sự trẻ trung, hiện đại và bình dị. Bốn bài thơ chuyển từ cảnh sang tình, từ bóng tối sang cuộc đời, ánh sáng và tương lai. Đường nét tinh tế, thể hiện một hồn thơ “cung đàn”. Bài thơ thấm đẫm một tình yêu bao la dành cho sinh vật và con người. Trong thời kỳ gian khó, tâm hồn Bác vẫn tràn đầy sức sống.
Đăng bởi: Trường ĐH KD & CN Hà Nội
Chuyên mục: Văn lớp 11, Ngữ văn 11
Thông tin cần xem thêm:
Hình Ảnh về Biện pháp tu từ trong bài Chiều tối
| Ngữ Văn 11
Video về Biện pháp tu từ trong bài Chiều tối
| Ngữ Văn 11
Wiki về Biện pháp tu từ trong bài Chiều tối
| Ngữ Văn 11
Biện pháp tu từ trong bài Chiều tối
| Ngữ Văn 11
Biện pháp tu từ trong bài Chiều tối
| Ngữ Văn 11 –
Câu hỏi: Phép tu từ trong bài Chiều tối
Câu trả lời:
– Nghệ thuật ngắt câu và liệt kê: Hình ảnh “cánh chim” và “đám mây” xuất hiện ở đầu bài thơ tạo nên một cách ngắt câu độc đáo như trong thơ cổ. Những hình ảnh ấy hiện lên cho thấy sự lẻ loi, cô đơn, mệt mỏi của những người tù cách mạng. “Chim mỏi đi rừng tìm chỗ ngủ” cho thấy không gian hoàng hôn đang buông xuống, đè nặng lên cánh chim bé nhỏ, cô đơn. Không gian trở nên hiu quạnh, vắng vẻ qua hình ảnh “Chòm sao lơ lửng giữa không trung”. Cả hai hình ảnh này đều thể hiện sự nặng nề của không gian dần bước vào trạng thái nghỉ ngơi, tĩnh lặng và trong đó, người tù hiện lên cô đơn, nhỏ bé, lẻ loi như cánh chim và đám mây. đó là nó.
– Ẩn dụ qua hình ảnh “lò than rực cháy”: Với Bác, đây không chỉ là ánh sáng của một người thợ rèn đơn thuần, mà đây là ánh sáng của tâm hồn Hồ Chí Minh, tinh thần lạc quan, phong thái ung dung tự tại. , lòng dũng cảm của người tù cách mạng. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Bác hiện lên với thái độ lạc quan, vượt lên hoàn cảnh. Đây là phẩm chất hiện đại của bài thơ, là tinh thần cách mạng kiên cường, bất khuất của vị lãnh tụ vĩ đại.
– Nghệ thuật nhân hoá: “chim mỏi bay về rừng tìm chỗ ngủ”.
Cùng tìm hiểu thêm bài thơ Chiều tối nhé!
1. Vài nét về tác giả Chiều tối
– Hồ Chí Minh (1890-1969) sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước.
– Thuở nhỏ học chữ Hán, rồi học chữ Quốc ngữ, tiếng Pháp, rất am hiểu văn hóa văn học phương Đông và phương Tây (Trung Quốc) và văn hóa văn học phương Tây (Pháp). chảy trong huyết quản của văn học.
– Quá trình hoạt động cách mạng:
+ Năm 1911: ra đi tìm đường cứu nước.
+ 1918 – 1922: Hoạt động cách mạng ở Pháp, tích cực viết báo, viết sách tuyên truyền chống thực dân và đoàn kết các dân tộc thuộc địa.
+ 1923 – 1941: hoạt động chủ yếu ở Liên Xô, Trung Quốc, Thái Lan.
+ 1942-1943: bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam tại các nhà tù Quảng Tây, Trung Quốc.
+ Ngày 2 tháng 9 năm 1945: đọc Tuyên ngôn độc lập…
⇒ Lãnh tụ vĩ đại đồng thời là nhà văn, nhà thơ lớn với di sản văn học quý giá.
– Tác phẩm chính:
+ các bài chính luận: Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Không có gì quý hơn độc lập tự do (1966) …
+ truyện và kí: Tiếng than của bà Trưng Trắc (1922), Vi Viên (1923), Những chuyện lớn là Varen và Phan Bội Châu (1925).
+ Thơ: tập thơ Nhật ký trong tù và nhiều bài thơ sáng tác ở Việt Bắc
– Phong cách nghệ thuật
+ Hồ Chí Minh coi văn nghệ là một sinh hoạt tinh thần phong phú và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp Cách mạng
+ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến đối tượng
+ Hồ Chí Minh luôn cho rằng tác phẩm văn học phải trung thực.
+ Hồ Chí Minh yêu cầu người viết phải chú ý đến hình thức thể hiện, tránh lối viết cầu kì, xa lạ, nặng nề.
2. Hoàn cảnh sáng tác bài Chiều tối
+ Là bài thơ thứ 31, trích trong “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh
+ Sáng tác vào cuối thu 1942, trên đường từ Tịnh Tây đến Thiên Bảo.
3. Thể thơ của bài thơ Chiều tối.
– Thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.
4. Phân tích bài thơ Chiều tối
– Tác phẩm “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh được viết từ ngày 2 tháng 8 năm 1942 đến ngày 10 tháng 9 năm 1943 khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam giữ vô cớ và bị tra tấn khắp các nhà tù tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trong số 133 bài thơ “Nhật ký trong tù” có những bài ghi lại những khoảnh khắc đáng nhớ trong ngày: Sáng, Trưa, Chiều, Chiều, Chiều, Hoàng hôn, Nửa đêm… Mỗi bài là một bài thơ. cảm xúc trong những ngày “ác mộng”.
– “Chiều tối” (Mộ) là bài số 31 trong “Nhật ký trong tù” số 31. Bài thơ số 32 là bài “Ngủ đêm ở Long Tuyền”. Vậy là ca khúc Chiều tối ghi lại cảnh xóm núi cuối ngày trên đường từ Thiên Bảo về Long Tuyền tháng 10/1942.
Đây là bài thơ gốc:
“Khu rừng giàu có tinh túy,
Cô ấy tự hào về thiên đường,
Hồn ma thiếu nữ làng sơn,
Bao trùm chúa quỷ. “
– Một cái nhìn thoáng qua, một ước mơ thầm kín về một mái ấm, một chốn dừng chân… của nhà thơ trên con đường tha hương xa xứ ngàn dặm được bộc lộ qua bài thơ, đọc mà ngỡ như chỉ là sự miêu tả của sân khấu. buổi tối ở một xóm núi xa lạ.
– Hai câu đầu tả bầu trời cuối ngày. Hai nét “lay động” cánh chim mỏi (chim hỗn tạp) bay về rừng xa, tìm cây ẩn hiện, một đám mây cô đơn lẻ loi (Cô Vân) trôi (lãng đãng). Đoạn thơ hai câu được viết song song, giọng thơ nhẹ nhàng, hơi buồn. Người lính lưu đày ngước mắt lên trời, nhìn chim bay và mây trôi nhẹ mà lòng bồi hồi xao xuyến. Rất tinh tế, những nét vẽ bên ngoài đã thoáng thấy tâm trạng. Câu thơ dịch của Nam Trân tuy không thể hiện chữ “cô” trong “cô Vân” nhưng khá hay:
“Chim mỏi vào rừng tìm chỗ ngủ”.
Mây trôi nhẹ trên không trung ”.
– Hai câu 1 và 2 mang vẻ đẹp cổ điển: tả ít nhưng gợi nhiều, chỉ 2 nét phác (chim bay, mây trôi) nhưng gợi được cái hồn của cảnh vật, ngày tàn, đêm dần buông, sinh vật như đang ở trong một trạng thái nghỉ ngơi và mệt mỏi. Nghệ thuật lấy nét vẽ mặt, lấy động để tả tĩnh được vận dụng sáng tạo. Nhìn chim bay, mây trôi, bạn cảm thấy bầu trời rộng lớn hơn, khung cảnh buổi tối êm đềm và tĩnh lặng hơn. Cảnh chiều tối ở làng núi này vẫn mang tính ước lệ, nó mở rộng những liên tưởng và cảm xúc thẩm mỹ trong mỗi chúng ta,… nhớ về một cánh chim bay trong “Truyện Kiều”: “Con chim ban ngày bay về rừng”. “; nhớ con chim mỏi và hình ảnh người lữ khách trong một buổi chiều se lạnh, hoài niệm:
“Gió ban mai ngàn thổi, chim bay mỏi
Dặm liễu mờ sương, khách bước từng bước
(Chiều nhớ nhà)
– Trở lại với bài “Chiều tối”, đám mây cô đơn lơ lửng trên bầu trời là hình ảnh ẩn dụ về một kẻ tha hương trên con đường dài khổ ải! Ngôn ngữ thơ súc tích, giàu sức biểu cảm, vừa tả cảnh vừa tả tình, nhẹ nhàng mà ấn tượng, có thừa.
– Tiếp nối câu cuối 3-4 từ cảnh mây trời, tác giả nói về cuộc sống của con người nơi núi rừng. Thiếu nữ và cô gái tóc xù là trung tâm của bức tranh này:
“Trong thôn, thiếu nữ bị ma che.
Bao trùm chúa quỷ. “
– Nét vẽ trẻ trung, bình dị, đáng yêu: Cô gái miền núi đang mài ngô. Ba chữ “ma bảo” ở cuối câu ba được lấy lại từ đầu câu 4, với động tác xay ngô nhịp nhàng, đồng thời miêu tả chuyển động tròn đều của cối xay ngô thủ công. Sự cần cù của những cô gái miền núi được cảm nhận và trân trọng. Nghệ thuật điệp ngữ liên tục đã làm cho thơ liền mạch và có tính nhạc. Bài thơ giặc giã: “Cô thôn xóm xay ngô tối”, với 2 chữ đã làm mất đi phong cách thơ Hồ Chí Minh; Chữ “tối” được thêm vào đã bộc lộ ý tứ của bài thơ, còn đâu là tiếng nước ngoài trong bài thơ chữ Hán này?
Các sự vật hiện ra nối tiếp nhau theo dòng chảy của thời gian: Khi xay xong ngô, than đã hồng, sáng, ấm vô cùng. Khi màn đêm buông xuống, chiếc brazier đỏ rực, cảnh tượng thu hút tâm trí người tù bị dẫn đi. Bếp tro lạnh buồn làm sao! ngọn đèn, bếp hồng trong đêm lạnh giá làm sao ấm áp. Hình ảnh thiếu nữ xóm núi xay ngô, thắt bím rực rỡ tượng trưng cho sự sum họp gia đình đã làm vơi đi nỗi cô đơn, vắng lặng. Hướng đến cảnh sinh hoạt bình dị: thiếu nữ mài ngô nhìn bếp lửa, lòng nóng bỏng, chân tay xiềng xích nặng trĩu, chiều tối Bác đã tìm được nơi nương tựa cho tâm hồn. tôi. Dường như sự cô đơn, lẻ loi, lạnh lẽo được xua tan. Thoáng thấy ước mơ thầm kín về một mái ấm gia đình đã đến với nhà thơ trên đường đi đày trong màn đêm buông xuống. Cảm hứng thơ đầy chất nhân văn. Đơn giản mà thơ mộng. Thơ đó là tâm hồn con người và tình người. Hai nét vẽ thiếu nữ đang mài ngô và một người thợ rèn dạ quang là hai nét vẽ giản dị, ấm áp, khỏe khoắn, trẻ trung, làm cho thơ Bác là sự hòa quyện giữa màu sắc cổ điển và chất hiện đại với vẻ bình dị.
– Nhiều bài thơ khác cho thấy trên con đường đày ải gian khổ, người chiến sĩ cách mạng trong “Nhật ký trong tù” hầu như bớt cô đơn, tâm hồn luôn gắn bó với nhịp sống, làm chủ hoàn cảnh, lạc quan yêu đời. Trong hoàng hôn gió lạnh vượt qua gian khổ. Anh cảm động trước tiếng chuông chùa, tiếng sáo của người chăn cừu và bước tới:
“Gió sắc như gươm mài đá núi,
Lạnh như que nhọn đâm vào cành cây
Ngôi chùa xa tiếng chuông thúc giục mọi người nhanh lên,
Trẻ con dắt trâu theo tiếng sáo bay.
(dịch bởi Nam Trân)
– Có lần lâm vào cảnh bị cùm chân, “lợi dụng giá rét để tấn công” nhưng anh vẫn “vượt ngục” và tìm được niềm vui nho nhỏ cho tâm hồn mình: “Bùm sớm, vui nghe xóm hát. ”(Ngủ đêm ở Long Tuyền). Điều đó cho thấy cuộc sống và tự do là khát vọng của anh. Thiên nhiên và con người hiện hữu trong thơ Bác với những nét vẽ đẹp đẽ, giản dị, đáng yêu, là lẽ sống mà Bác đã gắn bó, yêu thương suốt đời.
– “Bữa tối” – một bài thơ dễ thương: màu sắc cổ điển được kết hợp ngầm với sự trẻ trung, hiện đại và bình dị. Bốn bài thơ chuyển từ cảnh sang tình, từ bóng tối sang cuộc đời, ánh sáng và tương lai. Đường nét tinh tế, thể hiện một hồn thơ “cung đàn”. Bài thơ thấm đẫm một tình yêu bao la dành cho sinh vật và con người. Trong thời kỳ gian khó, tâm hồn Bác vẫn tràn đầy sức sống.
Đăng bởi: Trường ĐH KD & CN Hà Nội
Chuyên mục: Văn lớp 11, Ngữ văn 11
[rule_{ruleNumber}]
Câu hỏi: Phép tu từ trong bài Chiều tối
Câu trả lời:
– Nghệ thuật ngắt câu và liệt kê: Hình ảnh “cánh chim” và “đám mây” xuất hiện ở đầu bài thơ tạo nên một cách ngắt câu độc đáo như trong thơ cổ. Những hình ảnh ấy hiện lên cho thấy sự lẻ loi, cô đơn, mệt mỏi của những người tù cách mạng. “Chim mỏi đi rừng tìm chỗ ngủ” cho thấy không gian hoàng hôn đang buông xuống, đè nặng lên cánh chim bé nhỏ, cô đơn. Không gian trở nên hiu quạnh, vắng vẻ qua hình ảnh “Chòm sao lơ lửng giữa không trung”. Cả hai hình ảnh này đều thể hiện sự nặng nề của không gian dần bước vào trạng thái nghỉ ngơi, tĩnh lặng và trong đó, người tù hiện lên cô đơn, nhỏ bé, lẻ loi như cánh chim và đám mây. đó là nó.
– Ẩn dụ qua hình ảnh “lò than rực cháy”: Với Bác, đây không chỉ là ánh sáng của một người thợ rèn đơn thuần, mà đây là ánh sáng của tâm hồn Hồ Chí Minh, tinh thần lạc quan, phong thái ung dung tự tại. , lòng dũng cảm của người tù cách mạng. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Bác hiện lên với thái độ lạc quan, vượt lên hoàn cảnh. Đây là phẩm chất hiện đại của bài thơ, là tinh thần cách mạng kiên cường, bất khuất của vị lãnh tụ vĩ đại.
– Nghệ thuật nhân hoá: “chim mỏi bay về rừng tìm chỗ ngủ”.
Cùng tìm hiểu thêm bài thơ Chiều tối nhé!
1. Vài nét về tác giả Chiều tối
– Hồ Chí Minh (1890-1969) sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước.
– Thuở nhỏ học chữ Hán, rồi học chữ Quốc ngữ, tiếng Pháp, rất am hiểu văn hóa văn học phương Đông và phương Tây (Trung Quốc) và văn hóa văn học phương Tây (Pháp). chảy trong huyết quản của văn học.
– Quá trình hoạt động cách mạng:
+ Năm 1911: ra đi tìm đường cứu nước.
+ 1918 – 1922: Hoạt động cách mạng ở Pháp, tích cực viết báo, viết sách tuyên truyền chống thực dân và đoàn kết các dân tộc thuộc địa.
+ 1923 – 1941: hoạt động chủ yếu ở Liên Xô, Trung Quốc, Thái Lan.
+ 1942-1943: bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam tại các nhà tù Quảng Tây, Trung Quốc.
+ Ngày 2 tháng 9 năm 1945: đọc Tuyên ngôn độc lập…
⇒ Lãnh tụ vĩ đại đồng thời là nhà văn, nhà thơ lớn với di sản văn học quý giá.
– Tác phẩm chính:
+ các bài chính luận: Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Không có gì quý hơn độc lập tự do (1966) …
+ truyện và kí: Tiếng than của bà Trưng Trắc (1922), Vi Viên (1923), Những chuyện lớn là Varen và Phan Bội Châu (1925).
+ Thơ: tập thơ Nhật ký trong tù và nhiều bài thơ sáng tác ở Việt Bắc
– Phong cách nghệ thuật
+ Hồ Chí Minh coi văn nghệ là một sinh hoạt tinh thần phong phú và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp Cách mạng
+ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến đối tượng
+ Hồ Chí Minh luôn cho rằng tác phẩm văn học phải trung thực.
+ Hồ Chí Minh yêu cầu người viết phải chú ý đến hình thức thể hiện, tránh lối viết cầu kì, xa lạ, nặng nề.
2. Hoàn cảnh sáng tác bài Chiều tối
+ Là bài thơ thứ 31, trích trong “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh
+ Sáng tác vào cuối thu 1942, trên đường từ Tịnh Tây đến Thiên Bảo.
3. Thể thơ của bài thơ Chiều tối.
– Thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.
4. Phân tích bài thơ Chiều tối
– Tác phẩm “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh được viết từ ngày 2 tháng 8 năm 1942 đến ngày 10 tháng 9 năm 1943 khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam giữ vô cớ và bị tra tấn khắp các nhà tù tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trong số 133 bài thơ “Nhật ký trong tù” có những bài ghi lại những khoảnh khắc đáng nhớ trong ngày: Sáng, Trưa, Chiều, Chiều, Chiều, Hoàng hôn, Nửa đêm… Mỗi bài là một bài thơ. cảm xúc trong những ngày “ác mộng”.
– “Chiều tối” (Mộ) là bài số 31 trong “Nhật ký trong tù” số 31. Bài thơ số 32 là bài “Ngủ đêm ở Long Tuyền”. Vậy là ca khúc Chiều tối ghi lại cảnh xóm núi cuối ngày trên đường từ Thiên Bảo về Long Tuyền tháng 10/1942.
Đây là bài thơ gốc:
“Khu rừng giàu có tinh túy,
Cô ấy tự hào về thiên đường,
Hồn ma thiếu nữ làng sơn,
Bao trùm chúa quỷ. “
– Một cái nhìn thoáng qua, một ước mơ thầm kín về một mái ấm, một chốn dừng chân… của nhà thơ trên con đường tha hương xa xứ ngàn dặm được bộc lộ qua bài thơ, đọc mà ngỡ như chỉ là sự miêu tả của sân khấu. buổi tối ở một xóm núi xa lạ.
– Hai câu đầu tả bầu trời cuối ngày. Hai nét “lay động” cánh chim mỏi (chim hỗn tạp) bay về rừng xa, tìm cây ẩn hiện, một đám mây cô đơn lẻ loi (Cô Vân) trôi (lãng đãng). Đoạn thơ hai câu được viết song song, giọng thơ nhẹ nhàng, hơi buồn. Người lính lưu đày ngước mắt lên trời, nhìn chim bay và mây trôi nhẹ mà lòng bồi hồi xao xuyến. Rất tinh tế, những nét vẽ bên ngoài đã thoáng thấy tâm trạng. Câu thơ dịch của Nam Trân tuy không thể hiện chữ “cô” trong “cô Vân” nhưng khá hay:
“Chim mỏi vào rừng tìm chỗ ngủ”.
Mây trôi nhẹ trên không trung ”.
– Hai câu 1 và 2 mang vẻ đẹp cổ điển: tả ít nhưng gợi nhiều, chỉ 2 nét phác (chim bay, mây trôi) nhưng gợi được cái hồn của cảnh vật, ngày tàn, đêm dần buông, sinh vật như đang ở trong một trạng thái nghỉ ngơi và mệt mỏi. Nghệ thuật lấy nét vẽ mặt, lấy động để tả tĩnh được vận dụng sáng tạo. Nhìn chim bay, mây trôi, bạn cảm thấy bầu trời rộng lớn hơn, khung cảnh buổi tối êm đềm và tĩnh lặng hơn. Cảnh chiều tối ở làng núi này vẫn mang tính ước lệ, nó mở rộng những liên tưởng và cảm xúc thẩm mỹ trong mỗi chúng ta,… nhớ về một cánh chim bay trong “Truyện Kiều”: “Con chim ban ngày bay về rừng”. “; nhớ con chim mỏi và hình ảnh người lữ khách trong một buổi chiều se lạnh, hoài niệm:
“Gió ban mai ngàn thổi, chim bay mỏi
Dặm liễu mờ sương, khách bước từng bước
(Chiều nhớ nhà)
– Trở lại với bài “Chiều tối”, đám mây cô đơn lơ lửng trên bầu trời là hình ảnh ẩn dụ về một kẻ tha hương trên con đường dài khổ ải! Ngôn ngữ thơ súc tích, giàu sức biểu cảm, vừa tả cảnh vừa tả tình, nhẹ nhàng mà ấn tượng, có thừa.
– Tiếp nối câu cuối 3-4 từ cảnh mây trời, tác giả nói về cuộc sống của con người nơi núi rừng. Thiếu nữ và cô gái tóc xù là trung tâm của bức tranh này:
“Trong thôn, thiếu nữ bị ma che.
Bao trùm chúa quỷ. “
– Nét vẽ trẻ trung, bình dị, đáng yêu: Cô gái miền núi đang mài ngô. Ba chữ “ma bảo” ở cuối câu ba được lấy lại từ đầu câu 4, với động tác xay ngô nhịp nhàng, đồng thời miêu tả chuyển động tròn đều của cối xay ngô thủ công. Sự cần cù của những cô gái miền núi được cảm nhận và trân trọng. Nghệ thuật điệp ngữ liên tục đã làm cho thơ liền mạch và có tính nhạc. Bài thơ giặc giã: “Cô thôn xóm xay ngô tối”, với 2 chữ đã làm mất đi phong cách thơ Hồ Chí Minh; Chữ “tối” được thêm vào đã bộc lộ ý tứ của bài thơ, còn đâu là tiếng nước ngoài trong bài thơ chữ Hán này?
Các sự vật hiện ra nối tiếp nhau theo dòng chảy của thời gian: Khi xay xong ngô, than đã hồng, sáng, ấm vô cùng. Khi màn đêm buông xuống, chiếc brazier đỏ rực, cảnh tượng thu hút tâm trí người tù bị dẫn đi. Bếp tro lạnh buồn làm sao! ngọn đèn, bếp hồng trong đêm lạnh giá làm sao ấm áp. Hình ảnh thiếu nữ xóm núi xay ngô, thắt bím rực rỡ tượng trưng cho sự sum họp gia đình đã làm vơi đi nỗi cô đơn, vắng lặng. Hướng đến cảnh sinh hoạt bình dị: thiếu nữ mài ngô nhìn bếp lửa, lòng nóng bỏng, chân tay xiềng xích nặng trĩu, chiều tối Bác đã tìm được nơi nương tựa cho tâm hồn. tôi. Dường như sự cô đơn, lẻ loi, lạnh lẽo được xua tan. Thoáng thấy ước mơ thầm kín về một mái ấm gia đình đã đến với nhà thơ trên đường đi đày trong màn đêm buông xuống. Cảm hứng thơ đầy chất nhân văn. Đơn giản mà thơ mộng. Thơ đó là tâm hồn con người và tình người. Hai nét vẽ thiếu nữ đang mài ngô và một người thợ rèn dạ quang là hai nét vẽ giản dị, ấm áp, khỏe khoắn, trẻ trung, làm cho thơ Bác là sự hòa quyện giữa màu sắc cổ điển và chất hiện đại với vẻ bình dị.
– Nhiều bài thơ khác cho thấy trên con đường đày ải gian khổ, người chiến sĩ cách mạng trong “Nhật ký trong tù” hầu như bớt cô đơn, tâm hồn luôn gắn bó với nhịp sống, làm chủ hoàn cảnh, lạc quan yêu đời. Trong hoàng hôn gió lạnh vượt qua gian khổ. Anh cảm động trước tiếng chuông chùa, tiếng sáo của người chăn cừu và bước tới:
“Gió sắc như gươm mài đá núi,
Lạnh như que nhọn đâm vào cành cây
Ngôi chùa xa tiếng chuông thúc giục mọi người nhanh lên,
Trẻ con dắt trâu theo tiếng sáo bay.
(dịch bởi Nam Trân)
– Có lần lâm vào cảnh bị cùm chân, “lợi dụng giá rét để tấn công” nhưng anh vẫn “vượt ngục” và tìm được niềm vui nho nhỏ cho tâm hồn mình: “Bùm sớm, vui nghe xóm hát. ”(Ngủ đêm ở Long Tuyền). Điều đó cho thấy cuộc sống và tự do là khát vọng của anh. Thiên nhiên và con người hiện hữu trong thơ Bác với những nét vẽ đẹp đẽ, giản dị, đáng yêu, là lẽ sống mà Bác đã gắn bó, yêu thương suốt đời.
– “Bữa tối” – một bài thơ dễ thương: màu sắc cổ điển được kết hợp ngầm với sự trẻ trung, hiện đại và bình dị. Bốn bài thơ chuyển từ cảnh sang tình, từ bóng tối sang cuộc đời, ánh sáng và tương lai. Đường nét tinh tế, thể hiện một hồn thơ “cung đàn”. Bài thơ thấm đẫm một tình yêu bao la dành cho sinh vật và con người. Trong thời kỳ gian khó, tâm hồn Bác vẫn tràn đầy sức sống.
Đăng bởi: Trường ĐH KD & CN Hà Nội
Chuyên mục: Văn lớp 11, Ngữ văn 11
Bạn thấy bài viết Biện pháp tu từ trong bài Chiều tối
| Ngữ Văn 11 có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Biện pháp tu từ trong bài Chiều tối
| Ngữ Văn 11 bên dưới để https://hubm.edu.vn/ có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website ĐH KD & CN Hà Nội
Danh sách từ khóa người dùng tìm kiếm:
biện pháp tu từ trong bài chiều tối
biện pháp tu từ bài chiều tối
biện pháp tu từ chiều tối
biện pháp tu từ trong bài thơ chiều tối
biện pháp tu từ của bài chiều tối
chiều tối biện pháp tu từ
các biện pháp tu từ trong bài chiều tối
biện pháp nghệ thuật bài chiều tối
biện pháp nghệ thuật chiều tối
các biện pháp nghệ thuật trong bài chiều tối
Nguồn: hubm.edu.vn
#Biện #pháp #từ #trong #bài #Chiều #tối #Ngữ #Văn