Giáo Dục

Bình giảng bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy

Hướng dẫn lập dàn ý Bình giảng bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy Ngắn gọn, chi tiết, hay nhất. Với dàn ý và bài văn mẫu được tổng hợp và biên soạn dưới đây sẽ giúp các em học sinh có thêm nhiều tài liệu hữu ích cho việc học tập môn văn. Hãy cùng tham khảo!

Lập dàn ý cho bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy

Bình giảng bài thơ Đò lèn của Nguyễn Duy (hay nhất)

1. Mở bài 

Giới thiệu bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy. Bài thơ như là một lời tâm sự, hoài niệm đầy tình cảm về tuổi thơ của mình, đó là tuổi thơ bên người Bà.

2. Thân bài 

  • Giá trị của Bài Thơ được xây dựng lên bởi chính kí ức đời thường chân thực, tình cảm chân thành sâu xắc của Nguyễn Duy. Từ đó tạo nên sựu đồng cảm với tâm hồn của độc giả.

– Tác giả nhớ lại những kỉ niệm tuổi thơ -> Là một cậu bé tinh nghịch.

– Những kỉ niệm của cậu bé đều gắn với người bà, sống dưới sự chăm sóc, yêu thương, che chở của bà nên nhớ về tuổi thơ cũng là nhớ về những tháng ngày bên bà -> Tình cảm bà cháu sâu nặng.

– Tình yêu thương của Em giành cho người Bà yêu quý:

+ Tự trách bản thân đã không quan tâm đến những công việc vất vả của Bà —> từ mò cua xúc tép, gánh chè xanh, buôn bán trong những đêm hàn lạnh buốt.

+ Chính sự hồn nhiên vô tư của tuổi thơ, Tác giả đã chưa cảm nhận được những vất cả lo toang của Bà. Đây cũng chính là điều khiến Tác giả đã day dứt không quên đến mai sau này,

+ Khi nhận ra sự hy sinh của bà cũng là lúc người bà đã không còn trên thế gian này nữa.

→ Cảm giác xót xa, đau xót, tiếc nuối.

3. Kết bài 

Nêu cảm nghĩ về tình cảm của người cháu dành cho người bà của mình qua bài thơ “Đò Lèn”.

Bình giảng bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy – Bài văn mẫu

Bình giảng bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy (ngắn, hay nhất) (ảnh 2)

Trong cuộc đời con người, có lẽ tuổi thơ là quãng thời gian trong sáng nhất, đẹp nhất. Có những tuổi thơ êm đềm, cũng có những tuổi thơ dữ dội nhưng dù thế nào, khi không thể trở lại, mỗi chúng ta vẫn có những phút giây hoài niệm đầy tiếc nuối. Hình ảnh người bà đã trở thành một nhân vật quen thuộc trong văn học Việt Nam. Hình ảnh đó luôn được các nhà văn, nhà thơ nhắc đến với những lời ca ngợi, trân trọng. Và người bà trong bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy cũng được ông khắc họa như một lời tâm sự, một dòng hồi ức đầy thân thương về tuổi thơ của mình, đó là tuổi thơ bên bà.

Bài thơ Đò Đèn được ông sáng tác trong dịp về quê năm 1983. Bao nhiêu kỷ niệm tuổi thơ được ông tái hiện qua hai khổ thơ đầu:

Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần.
Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng.

Viết theo thể thơ tự do, những câu thơ không được viết hoa đầu dòng, nối nhau như dòng tâm tư, kí ức trải suốt cuộc đời tác giả. Những địa danh được tác giả liệt kê như Cống Ná, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền Cây Thị, đền Sòng đều là những địa danh mà thuở nhỏ ông đã đến thăm. Tính hiếu động, nghịch ngợm của một đứa trẻ được thể hiện qua những hành động câu cá, níu váy, “bắt chim sẻ bên tai tượng Phật”, ăn trộm nhãn ở chùa, đi xem phù thủy,… Những trò chơi thuở ấy. Hai chữ “thuở nhỏ” mở đầu văn bản, được láy lại lần nữa ở khổ thứ hai không chỉ là dấu mốc thời gian mà như còn đong đầy nỗi ngậm ngùi.Nguyễn Duy đang âm thầm hồi tưởng. Hóa ra nhà thơ đã có một tuổi thơ như vậy. Một tuổi thơ gắn liền với người bà kính yêu. Chi tiết “níu váy bà đi chợ” gợi lên hình ảnh cậu bé tung tăng vui mừng khi được bà ngoại dắt đi chợ. Chắc hẳn anh ấy đang háo hức chờ đợi những món quà quê được bày bán ở chợ. Có đứa trẻ nào mà không mong ngóng bà, mẹ đi chợ về? Có đứa trẻ nào không hét lên sung sướng khi nhận được quà từ chợ. Có lẽ gia đình anh không phải là khá giả nên anh mới “đi chân đất đêm khuya đi lễ đền Sòng”. Không gian tuổi thơ của anh gắn liền với thế giới tâm linh đình chùa. Một trong những ngôi đền đó là đền Song. Tại đây, nhà thơ đã cảm nhận được hương hoa huệ trắng quyện với làn khói trầm và đây cũng là nơi ông đã nghe thấy tiếng hát của người trung gian.

Có phải và thấp thoáng trong khói hương thơm ngát và điệu hát văn thuở xưa là bóng dáng bà ngoại yêu dấu của nhân vật tôi? Sang khổ thơ tiếp theo tứ thơ có sự biến đổi đột ngột. Không còn là các trò tinh nghịch thuở thiếu thời nữa mà là nỗi yêu thương không thể nén kìm:

Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế

Bà mò cua xúc tép ở đồng Quan

Bà đi gánh chè xanh Ba Trại

Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn

Dòng hoài niệm không dừng lại ở những trò chơi thuở nhỏ mà được tiếp nối bằng hình ảnh bà ngoại lam lũ, tảo tần. Người bà dường như đang đặt nặng trách nhiệm của cha mẹ đứa trẻ. Bà thay cha mẹ chăm lo cho đứa cháu khôn lớn. Tình yêu của bà, bà đã không ngại những đêm rét mướt để “mò cua bắt tép”, “gánh chè”, “bán trứng” để lo cho cuộc sống hàng ngày. “Thập kỷ” là từ dùng để chỉ những bước không chắc chắn, bước thấp, bước cao không ổn định. Đồng Quán, Bà Trại, quán Cháo, Đồng Giao, bến Lèn là nơi in dấu bước chân và lòng tham của cô. Khi còn nhỏ, nhà thơ không nhận ra sự hy sinh của mẹ. Anh “không biết” sự vất vả và tần suất của việc đó. Đây cũng là điều day dứt tác giả cho đến mãi sau này.

Trong tâm trí nhà thơ, người bà hiền từ, nhân hậu của mình cũng vĩ đại, thiêng liêng như tiên, như phật:

Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
giữa bà tôi và tiên phật thánh thần

Bà được so sánh với những hình tượng linh thiêng như “tiên, phật, thánh, thần”. Cô ấy có tuyệt vời như họ không? Bao nhiêu tình cảm anh dành cho em chỉ có em là người hiểu nhất. Những năm đói kém, mất mùa, hai ông phải ăn “củ riềng luộc”. Không phải là một thứ dễ ăn, nhưng trong hoàn cảnh như vậy, riềng cũng trở thành một thực phẩm cần thiết. Sau đó khi:

Bom Mỹ giội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn!

Có gì rất chua chát pha sắc thái giễu cợt đằng sau cách sử dụng từ ngữ của nhà thơ. Động từ “bay” được lặp lại ba lần, nhất là từ “bay tuốt” không chỉ nhằm để nói lên sức tàn phá, hủy diệt của bom Mỹ mà còn nói lên sự dễ dàng bị tiêu biến của những giá trị tưởng không gì tàn phá nổi. Bom Mỹ làm đền, chùa “không cánh mà bay”. Vậy là những không gian tâm linh từng gắn bó với tuổi thơ của cậu bé nay không còn nữa. Đau đớn biết bao khi những gì thân thuộc nhất không thể giữ lại. Cuộc sống còn nhiều khó khăn, chiến tranh luôn tiềm ẩn những nguy hiểm nhưng người bà vẫn tần tảo sớm hôm để nuôi cháu khôn lớn. Vì đứa cháu chỉ có bà là chỗ dựa tinh thần duy nhất nên bà không cho phép mình gục ngã. Dù phải đi “bán trứng” hay “mò cua bắt tép”, bà đều không ngại khó khăn.

Tất cả tình yêu thương của bà đều dồn hết vào đứa cháu, nhưng khi lớn lên bà mới hiểu được sự hy sinh thầm lặng của bà:

Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!

Thời gian trôi qua, cậu bé tinh nghịch một thời đã trở thành một chiến sĩ anh hùng. Khoảng thời gian anh đi bộ đội cũng là lúc anh không được về quê thăm mẹ, khi trở về thì “cô chỉ còn là nấm mồ”. Người bà đã mãi mãi ra đi, để lại trong nhà thơ nhiều tiếc thương, day dứt. Cảnh làng quê vẫn thế, dòng sông xưa vẫn “bên lở, bên bờ”, chỉ là sự vắng bóng của người bà thân quen. Người lính thương tiếc và nghẹn ngào trước sự ra đi của bà. Anh tự trách mình sao không nhìn thấy tình cảm của Bà sớm hơn, không biết yêu quáy trân trọng bà sớm hơn. Đứng trước phần mộ của người bà đã khuất, tác giả vô cùng tiếc nuối khi biết tình yêu của bà quá muộn. Ngay cả trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời, người bà cũng không được gặp lại đứa cháu mà bà hết mực yêu thương. Đọc những dòng thơ này, ai cũng phải xúc động rơi nước mắt vì thấy mình trong đó. Có lẽ người ta chỉ biết trân trọng những gì đã mất mà không để ý đến những gì còn ở hiện tại.

“Đò Lèn” như là lời tâm sự chân thành của tác giả với người đọc về người bà kính yêu của mình. Nguyễn Duy đã dùng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị để viết về tình cảm thiêng liêng ấy. Đò Lèn mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc về đạo làm người, đồng thời cũng là lời cảnh tỉnh với những ai chưa nhận ra được tình cảm của người thân xung quanh mình. Bài thơ đã chạm đến cảm xúc của nhiều thế hệ độc giả và trở thành một trong những bài thơ viết về đề tài người bà nổi tiếng trong văn học Việt Nam.

 

 

Nguồn: hubm.edu.vn

#Bình #giảng #bài #thơ #Đò #lèn #của #Nguyễn #Duy #hay #nhất

ĐH KD & CN Hà Nội

Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà nội là một trường dân lập, thuộc Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, được phép thành lập theo Quyết định số 405/TTg, ngày 15/6/1996 của Thủ tướng Chính phủ. Trường chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hệ thống văn bằng của Trường nằm trong hệ thống văn bằng quốc gia. Ngày 15/09/2006 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 750/QĐ-TTg về việc đổi tên trường thành Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button