Tổng Hợp

Các phương pháp Sản xuất Giá trị thặng dư

(Cập nhật lần cuối vào: 08/02/2022 bởi Lytuong.net)

Để có lượng giá trị thặng dư ngày càng lớn, nhà tư bản sử dụng nhiều phương pháp khác nhau. Có hai phương pháp cơ bản để sản xuất ra giá trị thặng dư: tuyệt đối và tương đối.

Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động quá thời gian lao động cần thiết, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động cần thiết không thay đổi. .

Ví dụ: Ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động cần thiết là 4 giờ, thời gian lao động thặng dư là 4 giờ, cứ mỗi giờ công nhân tạo ra một lượng giá trị mới là 10 đơn vị thì giá trị thặng dư là 40 và tỷ suất giá trị thặng dư là:

m ‘= 40/40 x 100%

Nếu ngày làm việc kéo dài thêm 2 giờ, tất cả các vật khác đều như nhau thì giá trị thặng dư tuyệt đối tăng lên 60 và m ‘cũng tăng lên:

m ‘= 60/40 x 100%

Nhà tư bản nào cũng muốn kéo dài ngày làm việc của công nhân, nhưng sự kéo dài đó không thể vượt quá giới hạn sinh lý của công nhân. Vì họ cũng phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ, giải trí để hồi phục sức khỏe. Việc kéo dài thời gian lao động còn bị giai cấp công nhân chống lại việc giảm giờ làm.

Giai cấp tư sản muốn kéo dài ngày lao động, giai cấp công nhân muốn rút ngắn thời gian lao động. Do đó, độ dài của ngày lao động được xác định tùy thuộc vào sự so sánh lực lượng trong cuộc đấu tranh hai giai cấp nói trên, mà điểm kết thúc là thời điểm mà lợi ích kinh tế của nhà tư bản và người lao động được thực hiện theo một thỏa hiệp tạm thời. .

Khi không thể kéo dài thời gian ngày lao động, nhà tư bản tìm mọi cách để tăng cường độ lao động của công nhân. Tăng cường độ lao động về cơ bản cũng giống như kéo dài ngày làm việc, tức là tốn nhiều lao động hơn trong một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, kéo dài thời gian lao động và tăng cường độ lao động là biện pháp tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối.

Tạo ra giá trị thặng dư tương đối

Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động cần thiết bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động, do đó làm tăng thời gian lao động thặng dư kể cả về độ dài của ngày lao động. chuyển động vẫn như cũ.

Ví dụ, ngày làm việc là 10 giờ, trong đó 5 giờ là lao động cần thiết và 5 giờ là lao động thặng dư. Nếu giảm giá trị sức lao động đi 1 giờ thì thời gian lao động cần thiết giảm đi 4 giờ. Như vậy, thời gian lao động thặng dư tăng từ 5 giờ lên 6 giờ và tỷ suất giá trị thặng dư (m ‘) tăng từ 100% lên 150%.

Giá trị của sức lao động được xác định bằng giá trị của tư liệu tiêu dùng và dịch vụ cho quá trình sản xuất và tái sản xuất sức lao động. Để giảm giá trị sức lao động, phải giảm giá trị của các phương tiện sinh sống và dịch vụ. các dịch vụ cần thiết cho người lao động. Vì vậy, cần phải tăng năng suất lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và trong các ngành sản xuất tư liệu sản xuất ra tư liệu tiêu dùng.

Giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối
So sánh giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối

Giá trị thặng dư

Để tăng năng suất lao động, cần cải tiến sản xuất, đổi mới công nghệ; Doanh nghiệp nào tăng năng suất trước sẽ thu được giá trị thặng dư.

Giá trị thặng dư là giá trị thặng dư thu được do áp dụng công nghệ mới sớm hơn các doanh nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị thị trường của nó. Khi đa số doanh nghiệp đổi mới kỹ thuật, công nghệ một cách phổ biến thì giá trị thặng dư của doanh nghiệp đó sẽ không còn.

Trong mỗi doanh nghiệp, giá trị thặng dư là hiện tượng nhất thời, nhưng trong phạm vi xã hội thì nó là vĩnh viễn. C.Mác gọi giá trị thặng dư tương đối là sự biến đổi của giá trị thặng dư tương đối, vì giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, chỉ khác nhau. một mặt là tăng năng suất lao động xã hội, mặt khác là tăng năng suất lao động cá nhân.

Giá trị thặng dư là động lực mạnh mẽ thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động cá biệt và đánh bại đối thủ cạnh tranh.

Tuy có sự chênh lệch giữa giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối nhưng cả hai loại đều là một bộ phận giá trị mới do người lao động tạo ra, đều có nguồn gốc từ lao động không công.

Trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối chiếm ưu thế, nhưng trong thế kỷ XX, sản xuất giá trị thặng dư tương đối chiếm ưu thế. Ngày nay, để sản xuất ra (m) giá trị thặng dư các nhà tư bản vẫn sử dụng kết hợp hai phương pháp nêu trên.

Có ý nghĩa

– Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối có ý nghĩa to lớn đối với sản xuất của cải vật chất, đó là:

+ Trong điều kiện cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu, việc kéo dài thời gian lao động, tăng cường độ lao động đồng nghĩa với việc giải quyết khó khăn về đời sống hoặc hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra.

+ Cải tiến công nghệ, ứng dụng thành tựu khoa học mới, tăng năng suất lao động, tăng của cải vật chất có ý nghĩa lâu dài.

– Cuộc chạy đua về giá trị thặng dư có tác dụng thúc đẩy nhà tư bản ra sức cải tiến kỹ thuật, ứng dụng thành tựu khoa học – công nghệ mới, có tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

– Nếu loại trừ chủ nghĩa tư bản thì hai phương thức này đều có ý nghĩa tích cực trong việc mang lại của cải vật chất cho xã hội, góp phần tăng phúc lợi xã hội và mở rộng tái sản xuất ở nước ta. .

Xem thêm thông tin chi tiết về Các phương pháp Sản xuất Giá trị thặng dư

Hình Ảnh về Các phương pháp Sản xuất Giá trị thặng dư

Video về Các phương pháp Sản xuất Giá trị thặng dư

Wiki về Các phương pháp Sản xuất Giá trị thặng dư

Các phương pháp Sản xuất Giá trị thặng dư

Các phương pháp Sản xuất Giá trị thặng dư -

(Cập nhật lần cuối vào: 08/02/2022 bởi Lytuong.net)

Để có lượng giá trị thặng dư ngày càng lớn, nhà tư bản sử dụng nhiều phương pháp khác nhau. Có hai phương pháp cơ bản để sản xuất ra giá trị thặng dư: tuyệt đối và tương đối.

Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động quá thời gian lao động cần thiết, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động cần thiết không thay đổi. .

Ví dụ: Ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động cần thiết là 4 giờ, thời gian lao động thặng dư là 4 giờ, cứ mỗi giờ công nhân tạo ra một lượng giá trị mới là 10 đơn vị thì giá trị thặng dư là 40 và tỷ suất giá trị thặng dư là:

m '= 40/40 x 100%

Nếu ngày làm việc kéo dài thêm 2 giờ, tất cả các vật khác đều như nhau thì giá trị thặng dư tuyệt đối tăng lên 60 và m 'cũng tăng lên:

m '= 60/40 x 100%

Nhà tư bản nào cũng muốn kéo dài ngày làm việc của công nhân, nhưng sự kéo dài đó không thể vượt quá giới hạn sinh lý của công nhân. Vì họ cũng phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ, giải trí để hồi phục sức khỏe. Việc kéo dài thời gian lao động còn bị giai cấp công nhân chống lại việc giảm giờ làm.

Giai cấp tư sản muốn kéo dài ngày lao động, giai cấp công nhân muốn rút ngắn thời gian lao động. Do đó, độ dài của ngày lao động được xác định tùy thuộc vào sự so sánh lực lượng trong cuộc đấu tranh hai giai cấp nói trên, mà điểm kết thúc là thời điểm mà lợi ích kinh tế của nhà tư bản và người lao động được thực hiện theo một thỏa hiệp tạm thời. .

Khi không thể kéo dài thời gian ngày lao động, nhà tư bản tìm mọi cách để tăng cường độ lao động của công nhân. Tăng cường độ lao động về cơ bản cũng giống như kéo dài ngày làm việc, tức là tốn nhiều lao động hơn trong một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, kéo dài thời gian lao động và tăng cường độ lao động là biện pháp tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối.

Tạo ra giá trị thặng dư tương đối

Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động cần thiết bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động, do đó làm tăng thời gian lao động thặng dư kể cả về độ dài của ngày lao động. chuyển động vẫn như cũ.

Ví dụ, ngày làm việc là 10 giờ, trong đó 5 giờ là lao động cần thiết và 5 giờ là lao động thặng dư. Nếu giảm giá trị sức lao động đi 1 giờ thì thời gian lao động cần thiết giảm đi 4 giờ. Như vậy, thời gian lao động thặng dư tăng từ 5 giờ lên 6 giờ và tỷ suất giá trị thặng dư (m ') tăng từ 100% lên 150%.

Giá trị của sức lao động được xác định bằng giá trị của tư liệu tiêu dùng và dịch vụ cho quá trình sản xuất và tái sản xuất sức lao động. Để giảm giá trị sức lao động, phải giảm giá trị của các phương tiện sinh sống và dịch vụ. các dịch vụ cần thiết cho người lao động. Vì vậy, cần phải tăng năng suất lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và trong các ngành sản xuất tư liệu sản xuất ra tư liệu tiêu dùng.

Giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối
So sánh giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối

Giá trị thặng dư

Để tăng năng suất lao động, cần cải tiến sản xuất, đổi mới công nghệ; Doanh nghiệp nào tăng năng suất trước sẽ thu được giá trị thặng dư.

Giá trị thặng dư là giá trị thặng dư thu được do áp dụng công nghệ mới sớm hơn các doanh nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị thị trường của nó. Khi đa số doanh nghiệp đổi mới kỹ thuật, công nghệ một cách phổ biến thì giá trị thặng dư của doanh nghiệp đó sẽ không còn.

Trong mỗi doanh nghiệp, giá trị thặng dư là hiện tượng nhất thời, nhưng trong phạm vi xã hội thì nó là vĩnh viễn. C.Mác gọi giá trị thặng dư tương đối là sự biến đổi của giá trị thặng dư tương đối, vì giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, chỉ khác nhau. một mặt là tăng năng suất lao động xã hội, mặt khác là tăng năng suất lao động cá nhân.

Giá trị thặng dư là động lực mạnh mẽ thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động cá biệt và đánh bại đối thủ cạnh tranh.

Tuy có sự chênh lệch giữa giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối nhưng cả hai loại đều là một bộ phận giá trị mới do người lao động tạo ra, đều có nguồn gốc từ lao động không công.

Trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối chiếm ưu thế, nhưng trong thế kỷ XX, sản xuất giá trị thặng dư tương đối chiếm ưu thế. Ngày nay, để sản xuất ra (m) giá trị thặng dư các nhà tư bản vẫn sử dụng kết hợp hai phương pháp nêu trên.

Có ý nghĩa

- Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối có ý nghĩa to lớn đối với sản xuất của cải vật chất, đó là:

+ Trong điều kiện cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu, việc kéo dài thời gian lao động, tăng cường độ lao động đồng nghĩa với việc giải quyết khó khăn về đời sống hoặc hoàn thành mục tiêu kế hoạch đề ra.

+ Cải tiến công nghệ, ứng dụng thành tựu khoa học mới, tăng năng suất lao động, tăng của cải vật chất có ý nghĩa lâu dài.

- Cuộc chạy đua về giá trị thặng dư có tác dụng thúc đẩy nhà tư bản ra sức cải tiến kỹ thuật, ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ mới, có tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

- Nếu loại trừ chủ nghĩa tư bản thì hai phương thức này đều có ý nghĩa tích cực trong việc mang lại của cải vật chất cho xã hội, góp phần tăng phúc lợi xã hội và mở rộng tái sản xuất ở nước ta. .

[rule_{ruleNumber}]

Bạn thấy bài viết Các phương pháp Sản xuất Giá trị thặng dư có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu  không hãy comment góp ý thêm về Các phương pháp Sản xuất Giá trị thặng dư bên dưới để https://hubm.edu.vn/ có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website ĐH KD & CN Hà Nội

Nguồn: ĐH KD & CN Hà Nội

#Các #phương #pháp #Sản #xuất #Giá #trị #thặng #dư

ĐH KD & CN Hà Nội

Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà nội là một trường dân lập, thuộc Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, được phép thành lập theo Quyết định số 405/TTg, ngày 15/6/1996 của Thủ tướng Chính phủ. Trường chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hệ thống văn bằng của Trường nằm trong hệ thống văn bằng quốc gia. Ngày 15/09/2006 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 750/QĐ-TTg về việc đổi tên trường thành Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button