Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm cực hay

Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Bài làm
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trí thức Nho học lỗi lạc của Việt Nam ở thế kỉ XVI. Ông là một con người có khí tiết, có nhân cách và trí tuệ hơn người. Nhắc đến ông, người ta thường nghĩ về triết lí sống “nhàn” như một kiểu phản ứng với thời thế đương thời. Triết lý sống cao đẹp ấy đã được nhà thơ khắc họa rõ nét trong thi phẩm cùng tên của mình- bài thơ Nôm nằm trong tập Bạch Vân quốc ngữ thi. Bài thơ như lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm sống nhàn là hòa hợp với tự nhiên, giữ được cốt cách thanh cao, khí tiết cương trực, vượt lên trên những danh lợi tầm thường:
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Có thể nói từ thế kỉ XV trở đi, thơ Nôm của Việt Nam đã có những thành tựu, đủ sức giữ thế song hành cũng văn học chữ Hán. Các trí thức Nho học, bên cạnh sáng tác chữ Hán thường dành phần ưu ái cho các tác phẩm chữ Nôm. Nếu như Nguyễn Trãi có “Quốc âm thi tập” thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có “Bạch Vân quốc ngữ thi. Khi viết thơ Nôm Đường luật, cả Nguyễn Trãi lẫn Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn có ý thức Việt hóa triệt để:
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Hai câu thơ đầu phản ánh cuộc sống nhàn nhã, ung dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Quan Trạng về sống giữa chốn thôn quê nay giống như một “lão nông tri điền”, hằng ngày làm bạn với những công cụ lao. Xét về mặt ngôn ngữ cũng như hình tượng thơ, thơ xưa, nhất là thơ Đường luật thiên về sử dụng những hình ảnh ước lệ, trang nhã hơn là những hình ảnh cụ thể, bình dị như mai, cuốc, cần câu mà tác giả đưa vào tác phẩm của mình. Số từ trong câu thơ cũng là con số thực chứ không phải là những con số ước lệ. Cách điệp số từ “một” tạo cho những câu thơ nhịp điệu thật chậm rãi, qua đó đã thể hiện tư thế sẵn sàng của Nguyễn Bỉnh Khiêm cho một cuộc sống bình dị, giản đơn. Có thể gọi đây là hiện tượng phá vỡ tính quy phạm và là một cách Việt hóa thể thơ Đường luật. Nguyễn Bỉnh Khiêm chấp nhận cuộc sống cần lao của một lão nông tri điền, mặc cho người đua đòi chạy theo bao thú vui phù phiếm, ông vẫn giữ tâm thế bình thản, điềm nhiên với cuộc sống mình đã chọn. Trước hết ta phải hiểu cái “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là kiểu nhàn hưởng lạc, không quan tâm sự đời. Người xưa thường cho rằng “nhàn cư vi bất thiện”, người quân tử có học không bao giờ để thân mình được thảnh thơi. Nguyễn Bỉnh Khiêm hướng đến cái nhàn trong tâm, không vướng bận danh lợi đua chen, tâm nhàn chứ thân không nhàn. Là vị quan từ bỏ cân đai áo mão, ông trở về cuộc sống lao động vất vả, tự cung tự cấp rất lương thiện của những người nông dân nghèo, ông vẫn phải lao động để nuôi sống mình chứ không trông cậy vào bất kì ai, không mang theo vàng ngọc chốn quan trường để về quê hưởng lạc. Quan Trạng đang áo mũ xênh xang, chức lớn, bổng lộc nhiều, ấy vậy mà bỗng dưng rũ bỏ tất cả để trở về với đời sống “tự cung tự cấp” thì cũng đã là: một sự ngông ngạo trước thói đời hám danh, hám lợi. Ngông ngạo mà không ngang tàng, cứ thuần hậu, nguyên thủy, chân chất nông dân:
Xem thêm: Cảm nghĩ về tình mẹ
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Cảm nhận về bài thơ Nhàn
Hai chữ “Thơ thẩn” trong câu thơ đã phản ánh một cách tài tình phong cách ung dung và tâm trạng thảnh thơi của con người tự cho mình là đã xa lánh cõi trần tục đầy tham, sân, si; trong lòng không còn vướng bận những âm mưu, toan tính bon chen. Niềm vui như hiện lên trong từng bước đi thong thả, nhàn nhã. Niềm vui ấy dường như còn chi phối cả âm điệu bài thơ, cứ nhẹ nhàng, thanh thản một cách lạ kì. Cụm từ “dầu ai vui thú nào” còn nói lên lập trường kiên định của nhà thơ trước lối sống đã lựa chọn. Đại từ phiếm chỉ “ai” được tác giả sử dụng trong câu thơ này với một nghĩa rất rộng, càng suy ngẫm càng thấy thú vị. Nguyễn Bỉnh Khiêm cáo quan, trở về quê nhà tức là trở về với thiên nhiên. Sống hòa hợp với thiên nhiên có nghĩa là đã thoát khỏi vòng tranh đua của thói tục, không còn bị cuốn hút bởi tiền tài, địa vị, để tâm hồn được an nhiên, khoáng đạt:
Ta dại, ta tìm nơi vắng vè,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Nhân cách thanh cao Nguyễn Bỉnh Khiêm đối lập với danh lợi như nước với lửa. “Vắng vẻ” đối lập với “lao xao”, “ta” đối lập với “người”. “Tìm nơi vắng vẻ” không phải là lánh đời mà là tìm nơi mình thích thú, được sống thoải mái, an nhiên, khác xa chốn quan trường hiểm hóc. “Nơi vắng vẻ” là nơi không có chuyện cầu cạnh, bon chen, là nơi thiên nhiên tươi xanh, mang lại sự thảnh thơi cho tâm hồn. “Chốn lao xao” là chốn quan trường công danh lợi lộc. Đến “chốn lao xao” là đến nơi con người chen chúc xô đẩy, giẫm đạp lên nhau để mưu cầu lợi danh, nguy hiểm khôn lường.
Xem thêm: Soạn bài Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là một bậc thức giả có trí tuệ vô cùng sáng suốt. Sáng suốt trong sự chọn lựa: “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ”, mặc cho: “Người khôn, người đến chốn lao xao”. Sáng suốt trong cách nói đùa vui hóm hỉnh, ngược nghĩa: dại mà thực chất là khôn, còn khôn mà hóa dại.
Ở một bài thơ khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:
Khôn mà hiểm độc là khôn dại,
Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.
(Thơ Nôm)
Cuộc sống của bậc đại nhân ở am Bạch Vân đạm bạc mà thanh cao biết mấy:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Hai câu thơ tạo nên bức tranh tứ bình bốn mùa tuyệt đẹp về cuộc sống thanh cao của một con người trở về với tự nhiên. Ở hai câu thực, phép đối tương phản tạo ra sự đối lập gay gắt thì ở hai câu luận, phép đối tương hỗ tạo ra một kết cấu cân xứng hoàn hảo. Cuộc sống giản dị ấy được thiên nhiên che chở, đất trời là tặng phẩm là nguồn sống có sẵn không cần phải đua đòi hay tranh giành mới có được. Nói một cách khác, ông sống thuận lẽ tự nhiên, mùa nào thức ấy, có chi dùng nấy, rất đơn giản, trong lành. Nguyễn Bỉnh Khiêm tả về cuộc sống bình dị của mình tuy nghèo mà không hèn, giọng điệu lại rất lạc quan, sắc thái vô cùng tươi sáng. Điều đó đủ thấy cuộc sống của ông là một chân trời tự do trong lành, ông thực hành đúng cái đạo của hiền nhân: “tri túc”. Cuộc sống này vốn không xa lạ với tâm thức của người xưa:
Xuân du phương thảo địa,
Hạ thưởng lục hà trì;
Thu ẩm hoàng hoa tửu,
Đông ngâm bạch tuyết thi.
(Cổ thi – TQ)
Nhãn quan tỏ tường và cái nhìn thông tuệ của nhà thơ thể hiện tập trung nhất ở hai câu thơ cuối. Nhà thơ tìm đến cái “say” là để “tỉnh” và ông tỉnh táo hơn bao giờ hết:
Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Phần hai câu kết được viết theo lối dụng điển quen thuộc xưa nay. Ta liên tưởng đến câu chuyện Thuần Vu Phần uống rượu nằm ngủ dưới gốc cây hòe để thấy được thông điệp của tác giả: công danh chỉ là giấc mộng phù phiếm, tỉnh giấc mọi thứ sẽ tan biến thành hư ảo. Có lẽ điểm nổi bật nhất của hai câu kết là hiện tượng đảo cú pháp ở câu 7: “Rượu đến cội cây ta sẽ uống”. Từ rượu được đưa ra đầu câu, khi đọc phải nhấn mạnh, ngắt thành một nhịp thật sảng khoái để thấy được tư thế tiên phong đạo cốt của tác giả đứng ngoài vòng thế sự. Qua đó quan Trạng khẳng định một lần nữa sự lựa chọn lối sống nhàn của mình. Cuộc sống “nhàn” ấy là kết quả của một nhân cách, một trí tuệ khác thường. Trí tuệ sáng suốt nhận ra rằng công danh, của cải, quyền quý chỉ tựa chiêm bao.
Xem thêm: Đề thi học kì 2 ngữ văn lớp 10
Nhàn là chủ đề rất phổ biến trong thơ văn thời trung đại, là một nét tư tưởng và văn hóa rất sâu sắc của người xưa, đặc biệt là của tầng lớp trí thức. Sống nhàn hòa hợp với tự nhiên, hợp với việc tu dưỡng nhân cách, có điều kiện dưỡng sinh, kéo dài tuổi thọ. Sống nhàn đem lại những thú vui lành mạnh cho con người, Biết sống nhàn, biết tìm thú nhàn là cả một học thuyết triết học lớn. Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải nhằm mục đích trốn tránh vất vả, cực nhọc về thể chất, quay lưng với xã hội, chỉ lo cho cuộc sống của bản thân, ông cho rằng sống nhàn là xa lánh nơi quyền quý, danh lợi mà ông gọi là “chốn lao xao”. Nhàn là sống hoà hợp với tự nhiên, về với tự nhiên để tu tâm dưỡng tính, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn thân mà không nhàn tâm, lúc nào cũng canh cánh nỗi niềm thương nước lo dân. Đặt trong hoàn cảnh xã hội phong kiến đương thời đã có những biểu hiện suy vi về đạo đức thì quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang nhiều yếu tố tích cực.
Chân dung Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện khá rõ nét qua bài thơ “nhàn”. Từ bức chân dung giản dị, mộc mạc ấy toát lên vẻ đẹp một nhân cách cao quý, một trí tuệ tuyệt vời. Năm tháng cứ trôi đi, thế nhưng có lẽ thi phẩm sẽ cùng với tên tuổi nhà thơ ấy sống mãi trong tâm hồn độc giả về một lối sống, một tâm hồn cao đẹp của một nhà Nho mẫu mực mà tên tuổi lưu danh muôn đời.
Bích Hợp
Thông tin cần xem thêm:
Hình Ảnh về Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm cực hay
Video về Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm cực hay
Wiki về Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm cực hay
Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm cực hay
Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm cực hay -
Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Bài làm
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trí thức Nho học lỗi lạc của Việt Nam ở thế kỉ XVI. Ông là một con người có khí tiết, có nhân cách và trí tuệ hơn người. Nhắc đến ông, người ta thường nghĩ về triết lí sống “nhàn” như một kiểu phản ứng với thời thế đương thời. Triết lý sống cao đẹp ấy đã được nhà thơ khắc họa rõ nét trong thi phẩm cùng tên của mình- bài thơ Nôm nằm trong tập Bạch Vân quốc ngữ thi. Bài thơ như lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, khẳng định quan niệm sống nhàn là hòa hợp với tự nhiên, giữ được cốt cách thanh cao, khí tiết cương trực, vượt lên trên những danh lợi tầm thường:
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Có thể nói từ thế kỉ XV trở đi, thơ Nôm của Việt Nam đã có những thành tựu, đủ sức giữ thế song hành cũng văn học chữ Hán. Các trí thức Nho học, bên cạnh sáng tác chữ Hán thường dành phần ưu ái cho các tác phẩm chữ Nôm. Nếu như Nguyễn Trãi có “Quốc âm thi tập” thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có “Bạch Vân quốc ngữ thi. Khi viết thơ Nôm Đường luật, cả Nguyễn Trãi lẫn Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn có ý thức Việt hóa triệt để:
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Hai câu thơ đầu phản ánh cuộc sống nhàn nhã, ung dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Quan Trạng về sống giữa chốn thôn quê nay giống như một “lão nông tri điền”, hằng ngày làm bạn với những công cụ lao. Xét về mặt ngôn ngữ cũng như hình tượng thơ, thơ xưa, nhất là thơ Đường luật thiên về sử dụng những hình ảnh ước lệ, trang nhã hơn là những hình ảnh cụ thể, bình dị như mai, cuốc, cần câu mà tác giả đưa vào tác phẩm của mình. Số từ trong câu thơ cũng là con số thực chứ không phải là những con số ước lệ. Cách điệp số từ “một” tạo cho những câu thơ nhịp điệu thật chậm rãi, qua đó đã thể hiện tư thế sẵn sàng của Nguyễn Bỉnh Khiêm cho một cuộc sống bình dị, giản đơn. Có thể gọi đây là hiện tượng phá vỡ tính quy phạm và là một cách Việt hóa thể thơ Đường luật. Nguyễn Bỉnh Khiêm chấp nhận cuộc sống cần lao của một lão nông tri điền, mặc cho người đua đòi chạy theo bao thú vui phù phiếm, ông vẫn giữ tâm thế bình thản, điềm nhiên với cuộc sống mình đã chọn. Trước hết ta phải hiểu cái “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là kiểu nhàn hưởng lạc, không quan tâm sự đời. Người xưa thường cho rằng “nhàn cư vi bất thiện”, người quân tử có học không bao giờ để thân mình được thảnh thơi. Nguyễn Bỉnh Khiêm hướng đến cái nhàn trong tâm, không vướng bận danh lợi đua chen, tâm nhàn chứ thân không nhàn. Là vị quan từ bỏ cân đai áo mão, ông trở về cuộc sống lao động vất vả, tự cung tự cấp rất lương thiện của những người nông dân nghèo, ông vẫn phải lao động để nuôi sống mình chứ không trông cậy vào bất kì ai, không mang theo vàng ngọc chốn quan trường để về quê hưởng lạc. Quan Trạng đang áo mũ xênh xang, chức lớn, bổng lộc nhiều, ấy vậy mà bỗng dưng rũ bỏ tất cả để trở về với đời sống “tự cung tự cấp” thì cũng đã là: một sự ngông ngạo trước thói đời hám danh, hám lợi. Ngông ngạo mà không ngang tàng, cứ thuần hậu, nguyên thủy, chân chất nông dân:
Xem thêm: Cảm nghĩ về tình mẹ
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Cảm nhận về bài thơ Nhàn
Hai chữ “Thơ thẩn” trong câu thơ đã phản ánh một cách tài tình phong cách ung dung và tâm trạng thảnh thơi của con người tự cho mình là đã xa lánh cõi trần tục đầy tham, sân, si; trong lòng không còn vướng bận những âm mưu, toan tính bon chen. Niềm vui như hiện lên trong từng bước đi thong thả, nhàn nhã. Niềm vui ấy dường như còn chi phối cả âm điệu bài thơ, cứ nhẹ nhàng, thanh thản một cách lạ kì. Cụm từ “dầu ai vui thú nào” còn nói lên lập trường kiên định của nhà thơ trước lối sống đã lựa chọn. Đại từ phiếm chỉ “ai” được tác giả sử dụng trong câu thơ này với một nghĩa rất rộng, càng suy ngẫm càng thấy thú vị. Nguyễn Bỉnh Khiêm cáo quan, trở về quê nhà tức là trở về với thiên nhiên. Sống hòa hợp với thiên nhiên có nghĩa là đã thoát khỏi vòng tranh đua của thói tục, không còn bị cuốn hút bởi tiền tài, địa vị, để tâm hồn được an nhiên, khoáng đạt:
Ta dại, ta tìm nơi vắng vè,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Nhân cách thanh cao Nguyễn Bỉnh Khiêm đối lập với danh lợi như nước với lửa. “Vắng vẻ” đối lập với “lao xao”, “ta” đối lập với “người”. “Tìm nơi vắng vẻ” không phải là lánh đời mà là tìm nơi mình thích thú, được sống thoải mái, an nhiên, khác xa chốn quan trường hiểm hóc. “Nơi vắng vẻ” là nơi không có chuyện cầu cạnh, bon chen, là nơi thiên nhiên tươi xanh, mang lại sự thảnh thơi cho tâm hồn. “Chốn lao xao” là chốn quan trường công danh lợi lộc. Đến “chốn lao xao” là đến nơi con người chen chúc xô đẩy, giẫm đạp lên nhau để mưu cầu lợi danh, nguy hiểm khôn lường.
Xem thêm: Soạn bài Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là một bậc thức giả có trí tuệ vô cùng sáng suốt. Sáng suốt trong sự chọn lựa: “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ”, mặc cho: “Người khôn, người đến chốn lao xao”. Sáng suốt trong cách nói đùa vui hóm hỉnh, ngược nghĩa: dại mà thực chất là khôn, còn khôn mà hóa dại.
Ở một bài thơ khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm viết:
Khôn mà hiểm độc là khôn dại,
Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.
(Thơ Nôm)
Cuộc sống của bậc đại nhân ở am Bạch Vân đạm bạc mà thanh cao biết mấy:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Hai câu thơ tạo nên bức tranh tứ bình bốn mùa tuyệt đẹp về cuộc sống thanh cao của một con người trở về với tự nhiên. Ở hai câu thực, phép đối tương phản tạo ra sự đối lập gay gắt thì ở hai câu luận, phép đối tương hỗ tạo ra một kết cấu cân xứng hoàn hảo. Cuộc sống giản dị ấy được thiên nhiên che chở, đất trời là tặng phẩm là nguồn sống có sẵn không cần phải đua đòi hay tranh giành mới có được. Nói một cách khác, ông sống thuận lẽ tự nhiên, mùa nào thức ấy, có chi dùng nấy, rất đơn giản, trong lành. Nguyễn Bỉnh Khiêm tả về cuộc sống bình dị của mình tuy nghèo mà không hèn, giọng điệu lại rất lạc quan, sắc thái vô cùng tươi sáng. Điều đó đủ thấy cuộc sống của ông là một chân trời tự do trong lành, ông thực hành đúng cái đạo của hiền nhân: “tri túc”. Cuộc sống này vốn không xa lạ với tâm thức của người xưa:
Xuân du phương thảo địa,
Hạ thưởng lục hà trì;
Thu ẩm hoàng hoa tửu,
Đông ngâm bạch tuyết thi.
(Cổ thi – TQ)
Nhãn quan tỏ tường và cái nhìn thông tuệ của nhà thơ thể hiện tập trung nhất ở hai câu thơ cuối. Nhà thơ tìm đến cái “say” là để “tỉnh” và ông tỉnh táo hơn bao giờ hết:
Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Phần hai câu kết được viết theo lối dụng điển quen thuộc xưa nay. Ta liên tưởng đến câu chuyện Thuần Vu Phần uống rượu nằm ngủ dưới gốc cây hòe để thấy được thông điệp của tác giả: công danh chỉ là giấc mộng phù phiếm, tỉnh giấc mọi thứ sẽ tan biến thành hư ảo. Có lẽ điểm nổi bật nhất của hai câu kết là hiện tượng đảo cú pháp ở câu 7: “Rượu đến cội cây ta sẽ uống”. Từ rượu được đưa ra đầu câu, khi đọc phải nhấn mạnh, ngắt thành một nhịp thật sảng khoái để thấy được tư thế tiên phong đạo cốt của tác giả đứng ngoài vòng thế sự. Qua đó quan Trạng khẳng định một lần nữa sự lựa chọn lối sống nhàn của mình. Cuộc sống “nhàn” ấy là kết quả của một nhân cách, một trí tuệ khác thường. Trí tuệ sáng suốt nhận ra rằng công danh, của cải, quyền quý chỉ tựa chiêm bao.
Xem thêm: Đề thi học kì 2 ngữ văn lớp 10
Nhàn là chủ đề rất phổ biến trong thơ văn thời trung đại, là một nét tư tưởng và văn hóa rất sâu sắc của người xưa, đặc biệt là của tầng lớp trí thức. Sống nhàn hòa hợp với tự nhiên, hợp với việc tu dưỡng nhân cách, có điều kiện dưỡng sinh, kéo dài tuổi thọ. Sống nhàn đem lại những thú vui lành mạnh cho con người, Biết sống nhàn, biết tìm thú nhàn là cả một học thuyết triết học lớn. Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải nhằm mục đích trốn tránh vất vả, cực nhọc về thể chất, quay lưng với xã hội, chỉ lo cho cuộc sống của bản thân, ông cho rằng sống nhàn là xa lánh nơi quyền quý, danh lợi mà ông gọi là “chốn lao xao”. Nhàn là sống hoà hợp với tự nhiên, về với tự nhiên để tu tâm dưỡng tính, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn thân mà không nhàn tâm, lúc nào cũng canh cánh nỗi niềm thương nước lo dân. Đặt trong hoàn cảnh xã hội phong kiến đương thời đã có những biểu hiện suy vi về đạo đức thì quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang nhiều yếu tố tích cực.
Chân dung Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện khá rõ nét qua bài thơ “nhàn”. Từ bức chân dung giản dị, mộc mạc ấy toát lên vẻ đẹp một nhân cách cao quý, một trí tuệ tuyệt vời. Năm tháng cứ trôi đi, thế nhưng có lẽ thi phẩm sẽ cùng với tên tuổi nhà thơ ấy sống mãi trong tâm hồn độc giả về một lối sống, một tâm hồn cao đẹp của một nhà Nho mẫu mực mà tên tuổi lưu danh muôn đời.
Bích Hợp
Bạn thấy bài viết Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm cực hay có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm cực hay bên dưới để https://hubm.edu.vn/ có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website ĐH KD & CN Hà Nội
Nguồn: hubm.edu.vn
Chuyên mục: Văn mẫu
#Cảm #nhận #về #bài #thơ #Nhàn #của #Nguyễn #Bỉnh #Khiêm #cực #hay