Giáo Dục

Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ | Ngữ Văn 11

Bạn đang gặp khó khi làm bài văn Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ? Đừng lo! Hãy tham khảo những bài văn mẫu đã được tuyển chọn và biên soạn với nội dung hay nhất của ĐH KD & CN Hà Nội dưới đây để nắm được cách làm cũng như bổ sung thêm vốn từ ngữ nhé. Chúc các bạn có một tài liệu bổ ích!

Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ – Bài mẫu 1

         “Văn học là nhân học” (M. Gorki), trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của con người luôn luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hòa quyện với nhau. Để làm rõ điều vừa nói, “hai đứa trẻ” của Thạch Lam sẽ là một dẫn chứng.

         Hai đứa trẻ vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng day dứt về đời sống con người.

         Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ nghèo xác và lại càng xơ xác tiêu điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê “mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy khóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt hồng”. Dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ran ngoài đồng, thế cũng đủ làm thành buổi chiều êm như ru, như bao chiều khác.

         Là một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổi chiều, chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn, vài đứa trẻ nghèo thu lượm các thứ phế phẩm lặt vặt… Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong “gió lạnh đầu mùa’’ nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong Hai đứa trẻ.

         Song bức tranh phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tới từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống của những người mà trong mắt Liên, nhân vật trung tâm của tác phẩm đã quá quen thuộc, mỗi người đã có một thói quen. Như bác phở Siêu, chị Tí, bố con người hát xẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợi chờ. Hiện thực không làm ta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo với những người cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương.


         Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chất văn lãng mạn.

         Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện “rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. Thời gian cứ chậm rãi đi theo từng bước phát triển của nội tâm. Từ “tiếng trống thu không” đến một câu văn nhẹ nhàng: “chiều, chiều tối” cất lên trong lòng, rồi trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn những “tạp âm” của ban ngày chỉ còn “vòm trời với ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”. Mỗi thời điểm lại có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng điều có phần thi vị hóa nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển.

         Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ có tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.

         Sự tài tình chính là ở chỗ nhà văn vừa hòa nhập hai tâm hồn quan sát – nhà văn và nhân vật là một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu là cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. “Liên mải ngồi quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn xếp những quả san đen lại”.

         Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Những câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. Phải chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn cũng chính là từ tâm hồn nhân vật Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt “Dõi theo những bóng người về muộn từ từ trong đêm”.

         Nếu như đầu tối phố huyện còn được “trang hoàng” bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Chỉ một vài tia sáng le lói từ khe cửa nhà ai thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của đốm sáng. Đó là ánh sáng tuy “ngàn sao đua nhau nhấp nháy” nhưng vẫn còn là hữu hạn trong nền trời vô hạn. Ánh sao vẫn cô đơn, ánh sáng của thứ đom đóm lập lòe trong kẽ lu bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà vãn ‘‘chớp nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có cái hiện thực vừa có sự bay bổng của con người bứt phá lên và nằm lại trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quần quanh lầm lũi.

         Ánh đèn của chị Tí đủ sáng một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai “gam màu” sáng tối. Khuôn mặt người phụ nữ chân quê chất phác đã trải qua một người bươn chải với cuộc sống để kiếm bát cơm, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm. Nhưng tối nào chị cũng góp một ánh đèn như thế. Tuy để thêm thu nhập, nhưmg hình như họ chỉ bán cho lấy lệ.

         Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là một nơi để họ sống… Âm thanh của cuộc sống phát ra từ hình những lời đối thoại, những hoạt động của con người nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.

         Chỉ một vài nét chấm phá nhưng tất cả những con người nhỏ nhoi có mặt trong tác phẩm đã làm nên bức tranh tổng thể của cuộc sống.

         Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt và cái đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được “đo” bằng một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phác họa một cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lí do để người dân phải lao vào cuộc bon chen giành giật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hòa thực sự, ấm áp tình người và mỗi người khi ra về chắc chắn vần giữ được sự ấm áp quên thân dù rất buồn.

         Sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện “bộ mặt buồn” nhân hậu tuyệt vời của ông.

         Trở lại với cách sinh hoạt ban đêm nơi phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết về chị em Liên. Đây chính là điểm nhấn nhà văn đã tập trung khắc họa. Liên gây ấn tượng với người đọc “bởi nội tâm sâu sắc của một con người đa cảm.

         Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ xác trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương. Đó là những chú bé nheo nhóc, nhớn nhác giữa chợ đã vắng từ lâu để nhặt những mẩu que kem và những gì có ích cho chúng. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Nỗi lòng buồn cua Liên báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh lí.

         Bức tranh phố huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu hụt một thứ gì của cảnh ngoài kia, Liên đã thốt lên rồi.

         Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng vẫn là cảm giác thân thuộc, vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi con người lần lượt đi qua tâm hồn non nớt của Liên.

         Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sống của cả một cộng đồng nhỏ nhoi ở một vùng quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống, ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quần chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán với những khoảng đất trống “lác đa lác đác trước lều” và những “con người ấy” mà thôi.

         Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ. Một hành động tưởng như quái gở và vô nghĩa, đó là “đợi tàu”. Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc họa hình ảnh Liên đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con. Chờ đợi kiên trì mặt đăm chiêu đón nhận, săn tìm một tín hiệu vui.

         Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui nhưng rồi cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó làm lòng Liên dấy lên nỗi buồn vô hình. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy nhất nhưng lại gợi thêm nỗi buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã khuất sau màn đêm dày đặc, không gian của phố huyện thoáng xao động rồi lại trở về như cũ. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết vui hay buồn, khi niềm vui do Liên tạo ra vụt đến, vụt đi. Nhưng vui buồn mà làm gì, khi tất cả đều chìm trong cái ao tù cuộc sống bé nhỏ của con người, còn con người thì chỉ biết bằng lòng, cam chịu hằng ngày chuyến tàu đêm vẫn là niềm mong mỏi của Liên. Khiến “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi “, nhưng rồi Liên cũng phai “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tĩnh mịch và đầy bóng tối”. Tương lai của Liên, một cô bé, chưa đến tuổi thành niên, có khác gì tương lai chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, một tác phẩm cùng một bối cảnh xã hội, khi vùng chạy ra giữa đêm tối, tối đen như cái tiền đồ của chị. Với chị Dậu phía trước không le lói một ánh sáng nào thì khác gì Liên, ánh sáng phía trước chỉ là ảo vọng dẫu cuộc đời hai con người này cùng tầng lớp xuất thân khác nhau.

         Nhưng chất lãng mạn cũng nằm ngay trong cảnh đợi tàu và ý nghĩa đợi tàu. Cuộc sống bon chen đã không làm Liên chìm trong cảnh đời lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một tâm hồn khát khao sống có hi vọng. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo được niềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. Quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có câu từ khá hoàn chỉnh. Đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Liên sống với niềm vui tượng trưng là chuyến tàu đêm rất thật chạy qua phố huyện nghèo “Liên” là mảng màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn trong thiên truyện, tạo nên bằng một cuộc đời, tạo nên như là người dẫn chuyện.

         Thành công của Thạch Lam chính là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn với xu hướng hiện thực, nhân đạo. Chính điều này đã tạo cho mỗi tác phẩm của ông một sức sống trường tồn trong lòng người. Tình người của nhà văn với nhân vật đã đưa ý nghĩa truyện lên một tầng cao mới.

         Mấy mươi năm sau, khi xã hội đã thay đổi về chất so với thời những con người như chị em Liên sống. Tố Hữu định nghĩa “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời còn là thơa nữa”. Nhưng khi đối chiếu truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và nhiều thiên truyện khác của Thạch Lam, ta vẫn thấy chúng có đầy đủ những yếu tố mang phong vị cùa một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lại hiện thực sâu sắc.

Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ – Bài mẫu 2

         Hai đứa trẻ là một truyện ngắn không có cốt truyện, nó chỉ ghi lại một góc đời thường của những số phận cơ hàn, nhưng vì thế mà Hai đứa trẻ đã toát lên yếu tố hiện thực và tấm lòng nhân đạo cao cả của Thạch Lam qua mẩu chuyện lãng mạn nhưng rất hiện thực.

         Câu chuyện mở ra cho ta một buổi chiều tà ở một phố huyện nhỏ bé xa xôi, nơi chị em Liên đang trải qua những ngày thơ ấu khó khăn…

   “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru. Phương tây đỏ rực… đám mây ánh hồng…”

         Giọng văn mở đầu riêng nó cũng đã đủ toát lên cái vẻ êm ả và hiu quạnh của một buổi chiều như bao buổi chiều ở một phố huyện đìu hiu, nghèo nàn. Chị em Liên đang dọn hàng sau một ngày buôn bán ế ẩm. Nhưng không chỉ có chị em Liên, mà còn những chị Tí, bác Siêu… cũng phải trải qua những chuỗi ngày đen tối nhất. Chị Tí ngày “mò cua bắt ốc”, tối đi bán nước, cuộc sống nó cứ bắt đầu như thế và vẫn kết thúc như thế, cứ như cái vòng lẩn quẩn mà họ không sao tìm ra lối thoát. Những con người, những con đường… tất cả đều hiện lên với cái vẻ xơ xác của nó, gợi lên cho ta một cuộc sống ngột ngạt tối tăm. Chỉ bằng giọng văn êm ả, không thôi, cả cuộc đời chung của những số phận riêng đã hiện lên ngột ngạt, khó chịu: “Chiếc chõng long nan”, “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị…” của phiên chợ bốc lên, những chi tiết nhỏ nhặt ấy đã miêu tả được cuộc sống đó những cuộc đời nghèo khó của chị em Liên, của chị Tí, của những đứa trẻ con nhà nghèo hiện lên rất thực, không lãng mạn chút nào. Giọng văn cứ trôi đều đều, gợi lên cái chết cứng của không gian và thời gian để phố huyện nghèo nàn ấy hiện lên rõ nét. Và đặc biệt, giữa không khí phố huyện tĩnh lặng đến ghê sợ đó, lại vang lên tiếng cười của một bà già điên, vượt qua không gian nhỏ nhoi để lột trần cuộc sống mỏi mòn bế tắc của một con người và của bao con người.

         Đây là một chi tiết khá đặc sắc của Thạch Lam, nhà văn đã dùng nó để miêu tả chính xác vẻ ảm đạm thê lương những cuộc đời vô vọng. Và đây là lúc Thạch Lam thầm kín bày tỏ tấm lòng êm mát sâu kín của mình đối với những cuộc đời rất thực đó…Ẩn sau những nỗi buồn cuộc đời chị em Liên là tình thương của Thạch Lam đối với những số phận nghèo nàn. Đó là tình yêu thương đồng loại giữa những cuộc sống đói rách, đó là tấm lòng thương xót của Liên khi thấy “những trẻ em nhà nghèo nhặt nhạnh” những gì có thể được, nhưng “không có tiền để cho”… chi tiết vừa hiện thực, vừa lãng mạn, muốn nói lên lòng thương người thầm kín của tác giả, mộc mạc, đơn sơ nhưng rất thiêng liêng cao cả.

         Đó là thực tại, còn tương lai của họ cũng chẳng tươi sáng chút nào. Những con đường cát “mấp mô cũng chẳng khác gì cuộc đời họ, những con đường nhỏ bé, đầy rác rưởi sẽ đưa chị em Liên, chị Tí, bác Siêu… về đâu. Chi tiết “con đường con” của Thạch Lam rất thực đã nêu lên cái tương lai ảm đạm nhưng cũng rất thực của bao người khốn khổ kia. Ẩn đằng sau cái lãng mạn, chan chứa tình người của câu văn nhẹ nhàng là một hiện thực lớn lao về cuộc sống tối tăm cơ cực của bao người. Con đường kia họ đã đi bao lần trong phố huyện nhỏ bé này, sáng đi kiếm sống, chiều tối lại về, cũng trên con đường đó. Tương lai mở ra trước mắt họ chỉ là con đường vòng nhỏ hẹp không lối thoát kia. Đó là hiện thực khủng khiếp đang đe dọa cuộc đời những con người lầm than.

         Giữa lúc tối tăm ấy, quá khứ xa xăm ấy đã hiện về với chị em Liên như thứ ánh sáng mơ hồ hắt ra từ những ngọn đèn leo lét. Thạch Lam đã sử dụng thứ ánh sáng kia rất đặc biệt, đó là ánh sáng hiu hắt của quá khứ, đang hội tụ về thực tại. Ánh sáng leo lắt soi rọi con đường cát “mấp mô” kia là chi tiết tả thực pha chút lãng mạn, nhưng đều tập trung vào việc miêu tả những cuộc đời thật kia. Giữa lúc tối tăm không ai cấm chị em Liên mơ tưởng về những ánh đèn rực rỡ năm nào, nó là niềm an ủi cho thực tại, hi vọng của tương lai.

         Hai đứa trẻ là một truyện ngắn phản ánh sự thật trần trụi về cuộc sống nghèo nàn, cơ cực của một số tầng lớp dân nghèo. Dưới ngòi bút của Thạch Lam cuộc sống như được phơi bày ra trước mắt cùng với niềm khao khát có được một cuộc sống tươi đẹp hơn. Để thấy được rõ nét hơn điều này các em có thể tham khảo qua bài văn chứng minh truyện ngắn Hai đứa trẻ là bài thơ trữ tình đầy xót xa mà Đọc tài liệu đã biên soạn.

Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ – Bài mẫu 3

         Tác giả Thạch Lam – một nhà văn có quan niệm văn chương lành mạnh, tiến bộ và có biệt tài về truyện ngắn, ông viết truyện nhưng cơ bản lại không có chuyện, tài nguyên chính để khai thác những truyện ngắn của Thạch Lam đó là thế giới nội tâm của nhân vật cùng những xúc cảm trong cuộc sống hàng ngày. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một truyện đặc sắc tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Thạch Lam, truyện không chỉ có sự hòa quyện giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình mà còn mang cả những giá trị hiện thực  sâu sắc.

         Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” xoay quanh cuộc sống của những người dân nghèo nơi phố huyện trong bối cảnh đất nước khó khăn trước Cách mạng tháng Tám, nhân vật trung tâm chính là hai chị em Liên – An, đặc biệt truyện được kể theo nhân vật Liên đã đưa người đọc đến gần hơn với cuộc sống, suy nghĩ và những xúc cảm của người dân phố huyện từ đó càng thấm thía và xót thương với những kiếp người nghèo khó, cơ cực, cuộc sống tăm tối, quẩn quanh. Có thể thấy, tác giả Thạch Lam đã rất thành công khi phản ánh bối cảnh hiện thực xã hội vào tác phẩm, đó là một phố huyện nghèo nàn trước cách mạng.

         Trước hết đó là một bức tranh thiên nhiên thơ mộng nhưng đượm buồn, cảnh phố huyện lúc chiều muộn với tiếng trống thu không, “áng mây hồng như hòn than sắp tàn”, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve, mũi ẩm mốc, tất cả đã quen thuộc với chị em Liên và những người dân phố huyện nghèo khổ. Cuộc sống của những con người nơi đây cũng giống như khung cảnh đìu hiu, xơ xác của thiên nhiên phố huyện, đó là một cuộc sống nghèo khổ, lam lũ, cảnh chợ tàn chỉ còn toàn rác rưởi, những đứa trẻ nghèo đang nhặt nhạnh tìm tòi bới móc những thứ còn sót lại của những người bán hàng. Bức tranh đã phản ánh hiện thực đời sống người dân miền Bắc nước ta trước cách mạng năm 1945, một cuộc sống nghèo tàn tạ. Cuộc sống về đêm khi tất cả chìm trong bóng tối càng khắc họa rõ hơn cuộc sống tối tăm, tù đọng, quẩn quanh, bế tắc của người dân phố huyện. Trước hoàn cảnh đó, con người ta luôn có những ước muốn, khát khao, giống như cảnh đợi tàu của hai chị em Liên, đợi tàu chỉ để thấy được ánh sáng, sự đông vui, nhộn nhịp, chờ đợi để được thấy cái gì đó tươi sáng hơn, khát khao về một cuộc sống tốt đẹp hơn.

         Bên cạnh giá trị hiện thực, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” còn chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc và cao cả, xuất phát từ chính tấm lòng thương xót, cảm thông và tình cảm của tác giả đối với những số phận người dân nghèo nơi phố huyện. Qua cách miêu tả và kể chuyện về cuộc sống những con người trong phố huyện như gash hàng nước của mẹ con chị Tí, gánh phở của bác Siêu, quán tạp hóa của chị em Liên hay bà cụ Thi Điên, đã bộc lộ rõ tác giả xót xa biết bao trước cảnh nghèo đói, tăm tối “An và Liên ngửi thấy mùi phở thơm, nhưng ở cái huyện nhỏ này, quà bác Siêu là một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không bao giờ mua được”. Không chỉ cảm thương về sự nghèo khổ, tác giả còn cảm thấy thương cho cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu của người dân huyện, từ chính sự cảm thương đó Thạch Lam cũng phát hiện ra những phẩm chất tốt đẹp bên trong con người họ. Đó là sự chăm chỉ, cần cù, chịu thương chịu khó, dù nghèo khó nhưng vẫn cố gắng bươn chải, dù kiếm được chút ít vẫn cố gắng duy trì, vẫn luôn giàu lòng yêu thương với nhau và đặc biệt là vẫn luôn nuôi hy vọng và mơ ước về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn. Thạch Lam trân trọng những ước mơ, khát khao đó, mong muốn một chuyến tàu đi qua mang theo một thế giới mới, một thứ ánh sáng mới khác với ánh sáng từ bếp lửa của bác Siêu, ngọn đèn dầu của chị Tí và chị em Liên.

         Đọc truyện “Hai đứa trẻ” ta như được trở về với bối cảnh xã hội cũ năm 1945, cảm nhận rõ cái nghèo, cái đói bủa vây. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm đã cho người đọc thấy được tài năng và tấm lòng đáng quý của nhà văn Thạch Lam.

Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ – Bài mẫu 4

         Nhà văn Thạch Lam là một trong những cây bút chính của nhóm Tự lực văn đoàn. Những tác phẩm của ông đều gắn liền với những người nông dân, thân phận người dân éo le, khó khăn.

         Trong mỗi truyện ngắn của nhà văn Thạch Lam đều hiện thực của sống của mình. Tác phẩm Hai đứa trẻ là một tác phẩm thành công với truyện ngắn không có cốt truyện.

         Truyện ngắn Hai đứa trẻ không có cốt truyện tình tiết kịch tính ly kỳ hấp dẫn nhưng lại có những triết lý sống sâu sắc, thể hiện giá trị hiện thực, xoay quanh những số phận đau khổ sống trong bóng tối của nơi phố huyện nghèo.

         Sau khi đọc xong “Hai đứa trẻ” chúng ta thấy rằng toàn bộ câu chuyện thể hiện cuộc sống nghèo khổ xơ xác của những số phận con người leo lét nghèo khổ. Cuộc sống đó đã được tác giả Thạch Lam tái hiện vô cùng chân thực, tiêu biểu của một buổi chiều tàn lụi.

         Trong tiếng trống thu không kêu lên, phương Tây đỏ rực như lửa cháy, tiếng ếch nhái kêu từ cánh đồng không xa vang lên văng vẳng, những đám mây như hòn than sắp tàn…Thể hiện sự quan sát tinh tế, tỉ mỉ của của tác giả Thạch Lam.

         Một khoảng không gian mênh mang của bầu trời và đồng ruộng vừa đẹp lại buồn gợi ra trước mắt người đọc vô cùng hiện thực. Trong nền của bức tranh thiên nhiên con người đó cuộc sống của những người nông dân nghèo khổ được tác giả Thạch Lam vô cùng sâu sắc.

         Trong bối cảnh đó hai chị em Liên dọn dẹp lại cửa hàng tạp hóa của gia đình cộng lại số tiền ghi chép trong sổ sau mỗi ngày. Bà cụ Thi điên lại đến cửa hàng nhà Liên mua cút rượu, uống một ngụm hết sạch sành sanh hết rồi kêu lên tiếng cười khanh khách.

         Bác Siêu gánh hàng phở ra bếp lửa than đỏ bập bùng trong bóng tối. Bác hát Xẩm ngồi chờ đợi trong bóng tối. Rồi hai mẹ con nhà chị Tý dọn gánh hàng nước của mình. Tối nào chị cũng dọn từ sớm tới khuya cũng chẳng bán được là bao nhưng hôm nào chị cũng dọn hàng.

         Thông qua ngòi bút tinh tế, sâu sắc của mình nhà văn Thạch Lam đã miêu tả cuộc sống của những con người nơi đây vô cùng hiện thực, một phố huyện nghèo nàn đang thoi thóp trong cảnh chiều tàn.

         Đêm nào những con người nơi phố huyện nghèo khổ này để mong chờ một chuyến tàu đi qua. Một chuyến tàu từ Hà Nội mang theo chút ánh sáng, mang theo chút hy vọng cho những số phận con người nơi đây.

         Mỗi khi chiếc tàu đi qua tiếng còi và tiếng bánh xe rầm rộ hai chị em Liên có thể nhìn chuyến tàu với ánh sáng chói lóa vụt qua, chuyến tàu thể hiện sức hấp dẫn của nó vô cùng ngập tràn ánh sáng chiếu xuống phố huyện, làm cho phố huyện sáng bừng trong chốc lát.

         Trên chiếc tàu những toa tàu hạng sang sáng láng, cái nguồn sáng ấy vụt qua biến vào màn đêm tĩnh lặng nhưng vẫn mang lại cho những con người nhỏ bé nơi đây một chút niềm vui.

         Khi nhìn chuyến tàu đó trong lòng hai chị em Liên lại gợi lên những suy nghĩ về biến động của gia đình. Nó là những kỷ niệm xa xôi về ký ức một thời ở Hà Nội. Với hai chị em Liên con tàu đem một chút gì của một thế giới khác đi qua, một thế giới văn minh tươi sáng.

         Sau khi đọc xong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” người đọc không khỏi trằn trọc về số phận của những con người nơi đây. Hai chị em Liên và những người sống ở phố huyện mong chờ đoàn tàu tràn ngập ánh sáng, một chút gì mới mẻ đi qua.

         Bởi trong cuộc sống của người dân phố huyện chỉ có bóng tối vây quanh, cảnh đời xơ xác nghèo khổ, họ không có niềm vui, cuộc sống mưu sinh của họ đã quá nghèo khổ vô vị.

         Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn vô cùng hay và đặc sắc thể hiện phong cách của nhà văn Thạch Lam qua tác phẩm ta thấy rõ lòng nhân đạo và tính hiện thực của nhà văn Thạch Lam với những con người nông dân nghèo khó.

         Trong câu chuyện thể hiện màu sắc u tối đượm buồn nhưng nó thể hiện giá trị hiện thực của bối cảnh xã hội lúc đó.

—/—

Trên đây là một số bài văn mẫu Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ mà ĐH KD & CN Hà Nội đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em có một bài văn thật tốt!

Đăng bởi: ĐH KD & CN Hà Nội

Chuyên mục: Lớp 11, Ngữ Văn 11

Thông tin cần xem thêm:

Hình Ảnh về Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ

| Ngữ Văn 11

Video về Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ

| Ngữ Văn 11

Wiki về Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ

| Ngữ Văn 11

Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ

| Ngữ Văn 11

Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ

| Ngữ Văn 11 -

Bạn đang gặp khó khi làm bài văn Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ? Đừng lo! Hãy tham khảo những bài văn mẫu đã được tuyển chọn và biên soạn với nội dung hay nhất của ĐH KD & CN Hà Nội dưới đây để nắm được cách làm cũng như bổ sung thêm vốn từ ngữ nhé. Chúc các bạn có một tài liệu bổ ích!

Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ – Bài mẫu 1

         “Văn học là nhân học” (M. Gorki), trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của con người luôn luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hòa quyện với nhau. Để làm rõ điều vừa nói, “hai đứa trẻ” của Thạch Lam sẽ là một dẫn chứng.

         Hai đứa trẻ vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng day dứt về đời sống con người.

         Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ nghèo xác và lại càng xơ xác tiêu điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê “mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy khóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt hồng”. Dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ran ngoài đồng, thế cũng đủ làm thành buổi chiều êm như ru, như bao chiều khác.

         Là một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổi chiều, chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn, vài đứa trẻ nghèo thu lượm các thứ phế phẩm lặt vặt… Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong “gió lạnh đầu mùa’’ nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong Hai đứa trẻ.

         Song bức tranh phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tới từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống của những người mà trong mắt Liên, nhân vật trung tâm của tác phẩm đã quá quen thuộc, mỗi người đã có một thói quen. Như bác phở Siêu, chị Tí, bố con người hát xẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợi chờ. Hiện thực không làm ta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo với những người cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương.


         Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chất văn lãng mạn.

         Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện “rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. Thời gian cứ chậm rãi đi theo từng bước phát triển của nội tâm. Từ “tiếng trống thu không” đến một câu văn nhẹ nhàng: “chiều, chiều tối” cất lên trong lòng, rồi trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn những “tạp âm” của ban ngày chỉ còn “vòm trời với ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”. Mỗi thời điểm lại có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng điều có phần thi vị hóa nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển.

         Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ có tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.

         Sự tài tình chính là ở chỗ nhà văn vừa hòa nhập hai tâm hồn quan sát – nhà văn và nhân vật là một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu là cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. “Liên mải ngồi quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn xếp những quả san đen lại”.

         Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Những câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. Phải chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn cũng chính là từ tâm hồn nhân vật Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt “Dõi theo những bóng người về muộn từ từ trong đêm”.

         Nếu như đầu tối phố huyện còn được “trang hoàng” bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Chỉ một vài tia sáng le lói từ khe cửa nhà ai thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của đốm sáng. Đó là ánh sáng tuy “ngàn sao đua nhau nhấp nháy” nhưng vẫn còn là hữu hạn trong nền trời vô hạn. Ánh sao vẫn cô đơn, ánh sáng của thứ đom đóm lập lòe trong kẽ lu bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà vãn ‘‘chớp nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có cái hiện thực vừa có sự bay bổng của con người bứt phá lên và nằm lại trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quần quanh lầm lũi.

         Ánh đèn của chị Tí đủ sáng một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai “gam màu” sáng tối. Khuôn mặt người phụ nữ chân quê chất phác đã trải qua một người bươn chải với cuộc sống để kiếm bát cơm, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm. Nhưng tối nào chị cũng góp một ánh đèn như thế. Tuy để thêm thu nhập, nhưmg hình như họ chỉ bán cho lấy lệ.

         Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là một nơi để họ sống… Âm thanh của cuộc sống phát ra từ hình những lời đối thoại, những hoạt động của con người nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.

         Chỉ một vài nét chấm phá nhưng tất cả những con người nhỏ nhoi có mặt trong tác phẩm đã làm nên bức tranh tổng thể của cuộc sống.

         Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt và cái đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được “đo” bằng một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phác họa một cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lí do để người dân phải lao vào cuộc bon chen giành giật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hòa thực sự, ấm áp tình người và mỗi người khi ra về chắc chắn vần giữ được sự ấm áp quên thân dù rất buồn.

         Sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện “bộ mặt buồn” nhân hậu tuyệt vời của ông.

         Trở lại với cách sinh hoạt ban đêm nơi phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết về chị em Liên. Đây chính là điểm nhấn nhà văn đã tập trung khắc họa. Liên gây ấn tượng với người đọc “bởi nội tâm sâu sắc của một con người đa cảm.

         Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ xác trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương. Đó là những chú bé nheo nhóc, nhớn nhác giữa chợ đã vắng từ lâu để nhặt những mẩu que kem và những gì có ích cho chúng. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Nỗi lòng buồn cua Liên báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh lí.

         Bức tranh phố huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu hụt một thứ gì của cảnh ngoài kia, Liên đã thốt lên rồi.

         Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng vẫn là cảm giác thân thuộc, vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi con người lần lượt đi qua tâm hồn non nớt của Liên.

         Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sống của cả một cộng đồng nhỏ nhoi ở một vùng quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống, ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quần chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán với những khoảng đất trống “lác đa lác đác trước lều” và những “con người ấy” mà thôi.

         Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ. Một hành động tưởng như quái gở và vô nghĩa, đó là “đợi tàu”. Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc họa hình ảnh Liên đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con. Chờ đợi kiên trì mặt đăm chiêu đón nhận, săn tìm một tín hiệu vui.

         Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui nhưng rồi cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó làm lòng Liên dấy lên nỗi buồn vô hình. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy nhất nhưng lại gợi thêm nỗi buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã khuất sau màn đêm dày đặc, không gian của phố huyện thoáng xao động rồi lại trở về như cũ. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết vui hay buồn, khi niềm vui do Liên tạo ra vụt đến, vụt đi. Nhưng vui buồn mà làm gì, khi tất cả đều chìm trong cái ao tù cuộc sống bé nhỏ của con người, còn con người thì chỉ biết bằng lòng, cam chịu hằng ngày chuyến tàu đêm vẫn là niềm mong mỏi của Liên. Khiến “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi “, nhưng rồi Liên cũng phai “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tĩnh mịch và đầy bóng tối”. Tương lai của Liên, một cô bé, chưa đến tuổi thành niên, có khác gì tương lai chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, một tác phẩm cùng một bối cảnh xã hội, khi vùng chạy ra giữa đêm tối, tối đen như cái tiền đồ của chị. Với chị Dậu phía trước không le lói một ánh sáng nào thì khác gì Liên, ánh sáng phía trước chỉ là ảo vọng dẫu cuộc đời hai con người này cùng tầng lớp xuất thân khác nhau.

         Nhưng chất lãng mạn cũng nằm ngay trong cảnh đợi tàu và ý nghĩa đợi tàu. Cuộc sống bon chen đã không làm Liên chìm trong cảnh đời lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một tâm hồn khát khao sống có hi vọng. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo được niềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. Quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có câu từ khá hoàn chỉnh. Đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Liên sống với niềm vui tượng trưng là chuyến tàu đêm rất thật chạy qua phố huyện nghèo “Liên” là mảng màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn trong thiên truyện, tạo nên bằng một cuộc đời, tạo nên như là người dẫn chuyện.

         Thành công của Thạch Lam chính là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn với xu hướng hiện thực, nhân đạo. Chính điều này đã tạo cho mỗi tác phẩm của ông một sức sống trường tồn trong lòng người. Tình người của nhà văn với nhân vật đã đưa ý nghĩa truyện lên một tầng cao mới.

         Mấy mươi năm sau, khi xã hội đã thay đổi về chất so với thời những con người như chị em Liên sống. Tố Hữu định nghĩa “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời còn là thơa nữa”. Nhưng khi đối chiếu truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và nhiều thiên truyện khác của Thạch Lam, ta vẫn thấy chúng có đầy đủ những yếu tố mang phong vị cùa một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lại hiện thực sâu sắc.

Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ – Bài mẫu 2

         Hai đứa trẻ là một truyện ngắn không có cốt truyện, nó chỉ ghi lại một góc đời thường của những số phận cơ hàn, nhưng vì thế mà Hai đứa trẻ đã toát lên yếu tố hiện thực và tấm lòng nhân đạo cao cả của Thạch Lam qua mẩu chuyện lãng mạn nhưng rất hiện thực.

         Câu chuyện mở ra cho ta một buổi chiều tà ở một phố huyện nhỏ bé xa xôi, nơi chị em Liên đang trải qua những ngày thơ ấu khó khăn…

   “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru. Phương tây đỏ rực… đám mây ánh hồng…”

         Giọng văn mở đầu riêng nó cũng đã đủ toát lên cái vẻ êm ả và hiu quạnh của một buổi chiều như bao buổi chiều ở một phố huyện đìu hiu, nghèo nàn. Chị em Liên đang dọn hàng sau một ngày buôn bán ế ẩm. Nhưng không chỉ có chị em Liên, mà còn những chị Tí, bác Siêu… cũng phải trải qua những chuỗi ngày đen tối nhất. Chị Tí ngày “mò cua bắt ốc”, tối đi bán nước, cuộc sống nó cứ bắt đầu như thế và vẫn kết thúc như thế, cứ như cái vòng lẩn quẩn mà họ không sao tìm ra lối thoát. Những con người, những con đường… tất cả đều hiện lên với cái vẻ xơ xác của nó, gợi lên cho ta một cuộc sống ngột ngạt tối tăm. Chỉ bằng giọng văn êm ả, không thôi, cả cuộc đời chung của những số phận riêng đã hiện lên ngột ngạt, khó chịu: “Chiếc chõng long nan”, “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị…” của phiên chợ bốc lên, những chi tiết nhỏ nhặt ấy đã miêu tả được cuộc sống đó những cuộc đời nghèo khó của chị em Liên, của chị Tí, của những đứa trẻ con nhà nghèo hiện lên rất thực, không lãng mạn chút nào. Giọng văn cứ trôi đều đều, gợi lên cái chết cứng của không gian và thời gian để phố huyện nghèo nàn ấy hiện lên rõ nét. Và đặc biệt, giữa không khí phố huyện tĩnh lặng đến ghê sợ đó, lại vang lên tiếng cười của một bà già điên, vượt qua không gian nhỏ nhoi để lột trần cuộc sống mỏi mòn bế tắc của một con người và của bao con người.

         Đây là một chi tiết khá đặc sắc của Thạch Lam, nhà văn đã dùng nó để miêu tả chính xác vẻ ảm đạm thê lương những cuộc đời vô vọng. Và đây là lúc Thạch Lam thầm kín bày tỏ tấm lòng êm mát sâu kín của mình đối với những cuộc đời rất thực đó…Ẩn sau những nỗi buồn cuộc đời chị em Liên là tình thương của Thạch Lam đối với những số phận nghèo nàn. Đó là tình yêu thương đồng loại giữa những cuộc sống đói rách, đó là tấm lòng thương xót của Liên khi thấy “những trẻ em nhà nghèo nhặt nhạnh” những gì có thể được, nhưng “không có tiền để cho”… chi tiết vừa hiện thực, vừa lãng mạn, muốn nói lên lòng thương người thầm kín của tác giả, mộc mạc, đơn sơ nhưng rất thiêng liêng cao cả.

         Đó là thực tại, còn tương lai của họ cũng chẳng tươi sáng chút nào. Những con đường cát “mấp mô cũng chẳng khác gì cuộc đời họ, những con đường nhỏ bé, đầy rác rưởi sẽ đưa chị em Liên, chị Tí, bác Siêu… về đâu. Chi tiết “con đường con” của Thạch Lam rất thực đã nêu lên cái tương lai ảm đạm nhưng cũng rất thực của bao người khốn khổ kia. Ẩn đằng sau cái lãng mạn, chan chứa tình người của câu văn nhẹ nhàng là một hiện thực lớn lao về cuộc sống tối tăm cơ cực của bao người. Con đường kia họ đã đi bao lần trong phố huyện nhỏ bé này, sáng đi kiếm sống, chiều tối lại về, cũng trên con đường đó. Tương lai mở ra trước mắt họ chỉ là con đường vòng nhỏ hẹp không lối thoát kia. Đó là hiện thực khủng khiếp đang đe dọa cuộc đời những con người lầm than.

         Giữa lúc tối tăm ấy, quá khứ xa xăm ấy đã hiện về với chị em Liên như thứ ánh sáng mơ hồ hắt ra từ những ngọn đèn leo lét. Thạch Lam đã sử dụng thứ ánh sáng kia rất đặc biệt, đó là ánh sáng hiu hắt của quá khứ, đang hội tụ về thực tại. Ánh sáng leo lắt soi rọi con đường cát “mấp mô” kia là chi tiết tả thực pha chút lãng mạn, nhưng đều tập trung vào việc miêu tả những cuộc đời thật kia. Giữa lúc tối tăm không ai cấm chị em Liên mơ tưởng về những ánh đèn rực rỡ năm nào, nó là niềm an ủi cho thực tại, hi vọng của tương lai.

         Hai đứa trẻ là một truyện ngắn phản ánh sự thật trần trụi về cuộc sống nghèo nàn, cơ cực của một số tầng lớp dân nghèo. Dưới ngòi bút của Thạch Lam cuộc sống như được phơi bày ra trước mắt cùng với niềm khao khát có được một cuộc sống tươi đẹp hơn. Để thấy được rõ nét hơn điều này các em có thể tham khảo qua bài văn chứng minh truyện ngắn Hai đứa trẻ là bài thơ trữ tình đầy xót xa mà Đọc tài liệu đã biên soạn.

Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ – Bài mẫu 3

         Tác giả Thạch Lam – một nhà văn có quan niệm văn chương lành mạnh, tiến bộ và có biệt tài về truyện ngắn, ông viết truyện nhưng cơ bản lại không có chuyện, tài nguyên chính để khai thác những truyện ngắn của Thạch Lam đó là thế giới nội tâm của nhân vật cùng những xúc cảm trong cuộc sống hàng ngày. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một truyện đặc sắc tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Thạch Lam, truyện không chỉ có sự hòa quyện giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình mà còn mang cả những giá trị hiện thực  sâu sắc.

         Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” xoay quanh cuộc sống của những người dân nghèo nơi phố huyện trong bối cảnh đất nước khó khăn trước Cách mạng tháng Tám, nhân vật trung tâm chính là hai chị em Liên – An, đặc biệt truyện được kể theo nhân vật Liên đã đưa người đọc đến gần hơn với cuộc sống, suy nghĩ và những xúc cảm của người dân phố huyện từ đó càng thấm thía và xót thương với những kiếp người nghèo khó, cơ cực, cuộc sống tăm tối, quẩn quanh. Có thể thấy, tác giả Thạch Lam đã rất thành công khi phản ánh bối cảnh hiện thực xã hội vào tác phẩm, đó là một phố huyện nghèo nàn trước cách mạng.

         Trước hết đó là một bức tranh thiên nhiên thơ mộng nhưng đượm buồn, cảnh phố huyện lúc chiều muộn với tiếng trống thu không, “áng mây hồng như hòn than sắp tàn”, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve, mũi ẩm mốc, tất cả đã quen thuộc với chị em Liên và những người dân phố huyện nghèo khổ. Cuộc sống của những con người nơi đây cũng giống như khung cảnh đìu hiu, xơ xác của thiên nhiên phố huyện, đó là một cuộc sống nghèo khổ, lam lũ, cảnh chợ tàn chỉ còn toàn rác rưởi, những đứa trẻ nghèo đang nhặt nhạnh tìm tòi bới móc những thứ còn sót lại của những người bán hàng. Bức tranh đã phản ánh hiện thực đời sống người dân miền Bắc nước ta trước cách mạng năm 1945, một cuộc sống nghèo tàn tạ. Cuộc sống về đêm khi tất cả chìm trong bóng tối càng khắc họa rõ hơn cuộc sống tối tăm, tù đọng, quẩn quanh, bế tắc của người dân phố huyện. Trước hoàn cảnh đó, con người ta luôn có những ước muốn, khát khao, giống như cảnh đợi tàu của hai chị em Liên, đợi tàu chỉ để thấy được ánh sáng, sự đông vui, nhộn nhịp, chờ đợi để được thấy cái gì đó tươi sáng hơn, khát khao về một cuộc sống tốt đẹp hơn.

         Bên cạnh giá trị hiện thực, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” còn chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc và cao cả, xuất phát từ chính tấm lòng thương xót, cảm thông và tình cảm của tác giả đối với những số phận người dân nghèo nơi phố huyện. Qua cách miêu tả và kể chuyện về cuộc sống những con người trong phố huyện như gash hàng nước của mẹ con chị Tí, gánh phở của bác Siêu, quán tạp hóa của chị em Liên hay bà cụ Thi Điên, đã bộc lộ rõ tác giả xót xa biết bao trước cảnh nghèo đói, tăm tối “An và Liên ngửi thấy mùi phở thơm, nhưng ở cái huyện nhỏ này, quà bác Siêu là một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không bao giờ mua được”. Không chỉ cảm thương về sự nghèo khổ, tác giả còn cảm thấy thương cho cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu của người dân huyện, từ chính sự cảm thương đó Thạch Lam cũng phát hiện ra những phẩm chất tốt đẹp bên trong con người họ. Đó là sự chăm chỉ, cần cù, chịu thương chịu khó, dù nghèo khó nhưng vẫn cố gắng bươn chải, dù kiếm được chút ít vẫn cố gắng duy trì, vẫn luôn giàu lòng yêu thương với nhau và đặc biệt là vẫn luôn nuôi hy vọng và mơ ước về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn. Thạch Lam trân trọng những ước mơ, khát khao đó, mong muốn một chuyến tàu đi qua mang theo một thế giới mới, một thứ ánh sáng mới khác với ánh sáng từ bếp lửa của bác Siêu, ngọn đèn dầu của chị Tí và chị em Liên.

         Đọc truyện “Hai đứa trẻ” ta như được trở về với bối cảnh xã hội cũ năm 1945, cảm nhận rõ cái nghèo, cái đói bủa vây. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm đã cho người đọc thấy được tài năng và tấm lòng đáng quý của nhà văn Thạch Lam.

Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ – Bài mẫu 4

         Nhà văn Thạch Lam là một trong những cây bút chính của nhóm Tự lực văn đoàn. Những tác phẩm của ông đều gắn liền với những người nông dân, thân phận người dân éo le, khó khăn.

         Trong mỗi truyện ngắn của nhà văn Thạch Lam đều hiện thực của sống của mình. Tác phẩm Hai đứa trẻ là một tác phẩm thành công với truyện ngắn không có cốt truyện.

         Truyện ngắn Hai đứa trẻ không có cốt truyện tình tiết kịch tính ly kỳ hấp dẫn nhưng lại có những triết lý sống sâu sắc, thể hiện giá trị hiện thực, xoay quanh những số phận đau khổ sống trong bóng tối của nơi phố huyện nghèo.

         Sau khi đọc xong “Hai đứa trẻ” chúng ta thấy rằng toàn bộ câu chuyện thể hiện cuộc sống nghèo khổ xơ xác của những số phận con người leo lét nghèo khổ. Cuộc sống đó đã được tác giả Thạch Lam tái hiện vô cùng chân thực, tiêu biểu của một buổi chiều tàn lụi.

         Trong tiếng trống thu không kêu lên, phương Tây đỏ rực như lửa cháy, tiếng ếch nhái kêu từ cánh đồng không xa vang lên văng vẳng, những đám mây như hòn than sắp tàn…Thể hiện sự quan sát tinh tế, tỉ mỉ của của tác giả Thạch Lam.

         Một khoảng không gian mênh mang của bầu trời và đồng ruộng vừa đẹp lại buồn gợi ra trước mắt người đọc vô cùng hiện thực. Trong nền của bức tranh thiên nhiên con người đó cuộc sống của những người nông dân nghèo khổ được tác giả Thạch Lam vô cùng sâu sắc.

         Trong bối cảnh đó hai chị em Liên dọn dẹp lại cửa hàng tạp hóa của gia đình cộng lại số tiền ghi chép trong sổ sau mỗi ngày. Bà cụ Thi điên lại đến cửa hàng nhà Liên mua cút rượu, uống một ngụm hết sạch sành sanh hết rồi kêu lên tiếng cười khanh khách.

         Bác Siêu gánh hàng phở ra bếp lửa than đỏ bập bùng trong bóng tối. Bác hát Xẩm ngồi chờ đợi trong bóng tối. Rồi hai mẹ con nhà chị Tý dọn gánh hàng nước của mình. Tối nào chị cũng dọn từ sớm tới khuya cũng chẳng bán được là bao nhưng hôm nào chị cũng dọn hàng.

         Thông qua ngòi bút tinh tế, sâu sắc của mình nhà văn Thạch Lam đã miêu tả cuộc sống của những con người nơi đây vô cùng hiện thực, một phố huyện nghèo nàn đang thoi thóp trong cảnh chiều tàn.

         Đêm nào những con người nơi phố huyện nghèo khổ này để mong chờ một chuyến tàu đi qua. Một chuyến tàu từ Hà Nội mang theo chút ánh sáng, mang theo chút hy vọng cho những số phận con người nơi đây.

         Mỗi khi chiếc tàu đi qua tiếng còi và tiếng bánh xe rầm rộ hai chị em Liên có thể nhìn chuyến tàu với ánh sáng chói lóa vụt qua, chuyến tàu thể hiện sức hấp dẫn của nó vô cùng ngập tràn ánh sáng chiếu xuống phố huyện, làm cho phố huyện sáng bừng trong chốc lát.

         Trên chiếc tàu những toa tàu hạng sang sáng láng, cái nguồn sáng ấy vụt qua biến vào màn đêm tĩnh lặng nhưng vẫn mang lại cho những con người nhỏ bé nơi đây một chút niềm vui.

         Khi nhìn chuyến tàu đó trong lòng hai chị em Liên lại gợi lên những suy nghĩ về biến động của gia đình. Nó là những kỷ niệm xa xôi về ký ức một thời ở Hà Nội. Với hai chị em Liên con tàu đem một chút gì của một thế giới khác đi qua, một thế giới văn minh tươi sáng.

         Sau khi đọc xong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” người đọc không khỏi trằn trọc về số phận của những con người nơi đây. Hai chị em Liên và những người sống ở phố huyện mong chờ đoàn tàu tràn ngập ánh sáng, một chút gì mới mẻ đi qua.

         Bởi trong cuộc sống của người dân phố huyện chỉ có bóng tối vây quanh, cảnh đời xơ xác nghèo khổ, họ không có niềm vui, cuộc sống mưu sinh của họ đã quá nghèo khổ vô vị.

         Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn vô cùng hay và đặc sắc thể hiện phong cách của nhà văn Thạch Lam qua tác phẩm ta thấy rõ lòng nhân đạo và tính hiện thực của nhà văn Thạch Lam với những con người nông dân nghèo khó.

         Trong câu chuyện thể hiện màu sắc u tối đượm buồn nhưng nó thể hiện giá trị hiện thực của bối cảnh xã hội lúc đó.

—/—

Trên đây là một số bài văn mẫu Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ mà ĐH KD & CN Hà Nội đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em có một bài văn thật tốt!

Đăng bởi: ĐH KD & CN Hà Nội

Chuyên mục: Lớp 11, Ngữ Văn 11

[rule_{ruleNumber}]

Bạn đang gặp khó khi làm bài văn Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ? Đừng lo! Hãy tham khảo những bài văn mẫu đã được tuyển chọn và biên soạn với nội dung hay nhất của ĐH KD & CN Hà Nội dưới đây để nắm được cách làm cũng như bổ sung thêm vốn từ ngữ nhé. Chúc các bạn có một tài liệu bổ ích!

Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ – Bài mẫu 1

         “Văn học là nhân học” (M. Gorki), trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của con người luôn luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hòa quyện với nhau. Để làm rõ điều vừa nói, “hai đứa trẻ” của Thạch Lam sẽ là một dẫn chứng.

         Hai đứa trẻ vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng day dứt về đời sống con người.

         Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ nghèo xác và lại càng xơ xác tiêu điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê “mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy khóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt hồng”. Dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ran ngoài đồng, thế cũng đủ làm thành buổi chiều êm như ru, như bao chiều khác.

         Là một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổi chiều, chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn, vài đứa trẻ nghèo thu lượm các thứ phế phẩm lặt vặt… Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong “gió lạnh đầu mùa’’ nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong Hai đứa trẻ.

         Song bức tranh phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tới từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống của những người mà trong mắt Liên, nhân vật trung tâm của tác phẩm đã quá quen thuộc, mỗi người đã có một thói quen. Như bác phở Siêu, chị Tí, bố con người hát xẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợi chờ. Hiện thực không làm ta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo với những người cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương.


         Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chất văn lãng mạn.

         Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện “rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. Thời gian cứ chậm rãi đi theo từng bước phát triển của nội tâm. Từ “tiếng trống thu không” đến một câu văn nhẹ nhàng: “chiều, chiều tối” cất lên trong lòng, rồi trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn những “tạp âm” của ban ngày chỉ còn “vòm trời với ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”. Mỗi thời điểm lại có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng điều có phần thi vị hóa nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển.

         Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ có tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.

         Sự tài tình chính là ở chỗ nhà văn vừa hòa nhập hai tâm hồn quan sát – nhà văn và nhân vật là một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu là cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. “Liên mải ngồi quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn xếp những quả san đen lại”.

         Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Những câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. Phải chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn cũng chính là từ tâm hồn nhân vật Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt “Dõi theo những bóng người về muộn từ từ trong đêm”.

         Nếu như đầu tối phố huyện còn được “trang hoàng” bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Chỉ một vài tia sáng le lói từ khe cửa nhà ai thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của đốm sáng. Đó là ánh sáng tuy “ngàn sao đua nhau nhấp nháy” nhưng vẫn còn là hữu hạn trong nền trời vô hạn. Ánh sao vẫn cô đơn, ánh sáng của thứ đom đóm lập lòe trong kẽ lu bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà vãn ‘‘chớp nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có cái hiện thực vừa có sự bay bổng của con người bứt phá lên và nằm lại trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quần quanh lầm lũi.

         Ánh đèn của chị Tí đủ sáng một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai “gam màu” sáng tối. Khuôn mặt người phụ nữ chân quê chất phác đã trải qua một người bươn chải với cuộc sống để kiếm bát cơm, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm. Nhưng tối nào chị cũng góp một ánh đèn như thế. Tuy để thêm thu nhập, nhưmg hình như họ chỉ bán cho lấy lệ.

         Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là một nơi để họ sống… Âm thanh của cuộc sống phát ra từ hình những lời đối thoại, những hoạt động của con người nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.

         Chỉ một vài nét chấm phá nhưng tất cả những con người nhỏ nhoi có mặt trong tác phẩm đã làm nên bức tranh tổng thể của cuộc sống.

         Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt và cái đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được “đo” bằng một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phác họa một cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lí do để người dân phải lao vào cuộc bon chen giành giật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hòa thực sự, ấm áp tình người và mỗi người khi ra về chắc chắn vần giữ được sự ấm áp quên thân dù rất buồn.

         Sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện “bộ mặt buồn” nhân hậu tuyệt vời của ông.

         Trở lại với cách sinh hoạt ban đêm nơi phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết về chị em Liên. Đây chính là điểm nhấn nhà văn đã tập trung khắc họa. Liên gây ấn tượng với người đọc “bởi nội tâm sâu sắc của một con người đa cảm.

         Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ xác trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương. Đó là những chú bé nheo nhóc, nhớn nhác giữa chợ đã vắng từ lâu để nhặt những mẩu que kem và những gì có ích cho chúng. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Nỗi lòng buồn cua Liên báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh lí.

         Bức tranh phố huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu hụt một thứ gì của cảnh ngoài kia, Liên đã thốt lên rồi.

         Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng vẫn là cảm giác thân thuộc, vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi con người lần lượt đi qua tâm hồn non nớt của Liên.

         Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sống của cả một cộng đồng nhỏ nhoi ở một vùng quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống, ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quần chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán với những khoảng đất trống “lác đa lác đác trước lều” và những “con người ấy” mà thôi.

         Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ. Một hành động tưởng như quái gở và vô nghĩa, đó là “đợi tàu”. Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc họa hình ảnh Liên đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con. Chờ đợi kiên trì mặt đăm chiêu đón nhận, săn tìm một tín hiệu vui.

         Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui nhưng rồi cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó làm lòng Liên dấy lên nỗi buồn vô hình. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy nhất nhưng lại gợi thêm nỗi buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã khuất sau màn đêm dày đặc, không gian của phố huyện thoáng xao động rồi lại trở về như cũ. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết vui hay buồn, khi niềm vui do Liên tạo ra vụt đến, vụt đi. Nhưng vui buồn mà làm gì, khi tất cả đều chìm trong cái ao tù cuộc sống bé nhỏ của con người, còn con người thì chỉ biết bằng lòng, cam chịu hằng ngày chuyến tàu đêm vẫn là niềm mong mỏi của Liên. Khiến “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi “, nhưng rồi Liên cũng phai “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tĩnh mịch và đầy bóng tối”. Tương lai của Liên, một cô bé, chưa đến tuổi thành niên, có khác gì tương lai chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, một tác phẩm cùng một bối cảnh xã hội, khi vùng chạy ra giữa đêm tối, tối đen như cái tiền đồ của chị. Với chị Dậu phía trước không le lói một ánh sáng nào thì khác gì Liên, ánh sáng phía trước chỉ là ảo vọng dẫu cuộc đời hai con người này cùng tầng lớp xuất thân khác nhau.

         Nhưng chất lãng mạn cũng nằm ngay trong cảnh đợi tàu và ý nghĩa đợi tàu. Cuộc sống bon chen đã không làm Liên chìm trong cảnh đời lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một tâm hồn khát khao sống có hi vọng. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo được niềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. Quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có câu từ khá hoàn chỉnh. Đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Liên sống với niềm vui tượng trưng là chuyến tàu đêm rất thật chạy qua phố huyện nghèo “Liên” là mảng màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn trong thiên truyện, tạo nên bằng một cuộc đời, tạo nên như là người dẫn chuyện.

         Thành công của Thạch Lam chính là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn với xu hướng hiện thực, nhân đạo. Chính điều này đã tạo cho mỗi tác phẩm của ông một sức sống trường tồn trong lòng người. Tình người của nhà văn với nhân vật đã đưa ý nghĩa truyện lên một tầng cao mới.

         Mấy mươi năm sau, khi xã hội đã thay đổi về chất so với thời những con người như chị em Liên sống. Tố Hữu định nghĩa “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời còn là thơa nữa”. Nhưng khi đối chiếu truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và nhiều thiên truyện khác của Thạch Lam, ta vẫn thấy chúng có đầy đủ những yếu tố mang phong vị cùa một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lại hiện thực sâu sắc.

Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ – Bài mẫu 2

         Hai đứa trẻ là một truyện ngắn không có cốt truyện, nó chỉ ghi lại một góc đời thường của những số phận cơ hàn, nhưng vì thế mà Hai đứa trẻ đã toát lên yếu tố hiện thực và tấm lòng nhân đạo cao cả của Thạch Lam qua mẩu chuyện lãng mạn nhưng rất hiện thực.

         Câu chuyện mở ra cho ta một buổi chiều tà ở một phố huyện nhỏ bé xa xôi, nơi chị em Liên đang trải qua những ngày thơ ấu khó khăn…

   “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru. Phương tây đỏ rực… đám mây ánh hồng…”

         Giọng văn mở đầu riêng nó cũng đã đủ toát lên cái vẻ êm ả và hiu quạnh của một buổi chiều như bao buổi chiều ở một phố huyện đìu hiu, nghèo nàn. Chị em Liên đang dọn hàng sau một ngày buôn bán ế ẩm. Nhưng không chỉ có chị em Liên, mà còn những chị Tí, bác Siêu… cũng phải trải qua những chuỗi ngày đen tối nhất. Chị Tí ngày “mò cua bắt ốc”, tối đi bán nước, cuộc sống nó cứ bắt đầu như thế và vẫn kết thúc như thế, cứ như cái vòng lẩn quẩn mà họ không sao tìm ra lối thoát. Những con người, những con đường… tất cả đều hiện lên với cái vẻ xơ xác của nó, gợi lên cho ta một cuộc sống ngột ngạt tối tăm. Chỉ bằng giọng văn êm ả, không thôi, cả cuộc đời chung của những số phận riêng đã hiện lên ngột ngạt, khó chịu: “Chiếc chõng long nan”, “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị…” của phiên chợ bốc lên, những chi tiết nhỏ nhặt ấy đã miêu tả được cuộc sống đó những cuộc đời nghèo khó của chị em Liên, của chị Tí, của những đứa trẻ con nhà nghèo hiện lên rất thực, không lãng mạn chút nào. Giọng văn cứ trôi đều đều, gợi lên cái chết cứng của không gian và thời gian để phố huyện nghèo nàn ấy hiện lên rõ nét. Và đặc biệt, giữa không khí phố huyện tĩnh lặng đến ghê sợ đó, lại vang lên tiếng cười của một bà già điên, vượt qua không gian nhỏ nhoi để lột trần cuộc sống mỏi mòn bế tắc của một con người và của bao con người.

         Đây là một chi tiết khá đặc sắc của Thạch Lam, nhà văn đã dùng nó để miêu tả chính xác vẻ ảm đạm thê lương những cuộc đời vô vọng. Và đây là lúc Thạch Lam thầm kín bày tỏ tấm lòng êm mát sâu kín của mình đối với những cuộc đời rất thực đó…Ẩn sau những nỗi buồn cuộc đời chị em Liên là tình thương của Thạch Lam đối với những số phận nghèo nàn. Đó là tình yêu thương đồng loại giữa những cuộc sống đói rách, đó là tấm lòng thương xót của Liên khi thấy “những trẻ em nhà nghèo nhặt nhạnh” những gì có thể được, nhưng “không có tiền để cho”… chi tiết vừa hiện thực, vừa lãng mạn, muốn nói lên lòng thương người thầm kín của tác giả, mộc mạc, đơn sơ nhưng rất thiêng liêng cao cả.

         Đó là thực tại, còn tương lai của họ cũng chẳng tươi sáng chút nào. Những con đường cát “mấp mô cũng chẳng khác gì cuộc đời họ, những con đường nhỏ bé, đầy rác rưởi sẽ đưa chị em Liên, chị Tí, bác Siêu… về đâu. Chi tiết “con đường con” của Thạch Lam rất thực đã nêu lên cái tương lai ảm đạm nhưng cũng rất thực của bao người khốn khổ kia. Ẩn đằng sau cái lãng mạn, chan chứa tình người của câu văn nhẹ nhàng là một hiện thực lớn lao về cuộc sống tối tăm cơ cực của bao người. Con đường kia họ đã đi bao lần trong phố huyện nhỏ bé này, sáng đi kiếm sống, chiều tối lại về, cũng trên con đường đó. Tương lai mở ra trước mắt họ chỉ là con đường vòng nhỏ hẹp không lối thoát kia. Đó là hiện thực khủng khiếp đang đe dọa cuộc đời những con người lầm than.

         Giữa lúc tối tăm ấy, quá khứ xa xăm ấy đã hiện về với chị em Liên như thứ ánh sáng mơ hồ hắt ra từ những ngọn đèn leo lét. Thạch Lam đã sử dụng thứ ánh sáng kia rất đặc biệt, đó là ánh sáng hiu hắt của quá khứ, đang hội tụ về thực tại. Ánh sáng leo lắt soi rọi con đường cát “mấp mô” kia là chi tiết tả thực pha chút lãng mạn, nhưng đều tập trung vào việc miêu tả những cuộc đời thật kia. Giữa lúc tối tăm không ai cấm chị em Liên mơ tưởng về những ánh đèn rực rỡ năm nào, nó là niềm an ủi cho thực tại, hi vọng của tương lai.

         Hai đứa trẻ là một truyện ngắn phản ánh sự thật trần trụi về cuộc sống nghèo nàn, cơ cực của một số tầng lớp dân nghèo. Dưới ngòi bút của Thạch Lam cuộc sống như được phơi bày ra trước mắt cùng với niềm khao khát có được một cuộc sống tươi đẹp hơn. Để thấy được rõ nét hơn điều này các em có thể tham khảo qua bài văn chứng minh truyện ngắn Hai đứa trẻ là bài thơ trữ tình đầy xót xa mà Đọc tài liệu đã biên soạn.

Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ – Bài mẫu 3

         Tác giả Thạch Lam – một nhà văn có quan niệm văn chương lành mạnh, tiến bộ và có biệt tài về truyện ngắn, ông viết truyện nhưng cơ bản lại không có chuyện, tài nguyên chính để khai thác những truyện ngắn của Thạch Lam đó là thế giới nội tâm của nhân vật cùng những xúc cảm trong cuộc sống hàng ngày. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một truyện đặc sắc tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Thạch Lam, truyện không chỉ có sự hòa quyện giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình mà còn mang cả những giá trị hiện thực  sâu sắc.

         Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” xoay quanh cuộc sống của những người dân nghèo nơi phố huyện trong bối cảnh đất nước khó khăn trước Cách mạng tháng Tám, nhân vật trung tâm chính là hai chị em Liên – An, đặc biệt truyện được kể theo nhân vật Liên đã đưa người đọc đến gần hơn với cuộc sống, suy nghĩ và những xúc cảm của người dân phố huyện từ đó càng thấm thía và xót thương với những kiếp người nghèo khó, cơ cực, cuộc sống tăm tối, quẩn quanh. Có thể thấy, tác giả Thạch Lam đã rất thành công khi phản ánh bối cảnh hiện thực xã hội vào tác phẩm, đó là một phố huyện nghèo nàn trước cách mạng.

         Trước hết đó là một bức tranh thiên nhiên thơ mộng nhưng đượm buồn, cảnh phố huyện lúc chiều muộn với tiếng trống thu không, “áng mây hồng như hòn than sắp tàn”, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve, mũi ẩm mốc, tất cả đã quen thuộc với chị em Liên và những người dân phố huyện nghèo khổ. Cuộc sống của những con người nơi đây cũng giống như khung cảnh đìu hiu, xơ xác của thiên nhiên phố huyện, đó là một cuộc sống nghèo khổ, lam lũ, cảnh chợ tàn chỉ còn toàn rác rưởi, những đứa trẻ nghèo đang nhặt nhạnh tìm tòi bới móc những thứ còn sót lại của những người bán hàng. Bức tranh đã phản ánh hiện thực đời sống người dân miền Bắc nước ta trước cách mạng năm 1945, một cuộc sống nghèo tàn tạ. Cuộc sống về đêm khi tất cả chìm trong bóng tối càng khắc họa rõ hơn cuộc sống tối tăm, tù đọng, quẩn quanh, bế tắc của người dân phố huyện. Trước hoàn cảnh đó, con người ta luôn có những ước muốn, khát khao, giống như cảnh đợi tàu của hai chị em Liên, đợi tàu chỉ để thấy được ánh sáng, sự đông vui, nhộn nhịp, chờ đợi để được thấy cái gì đó tươi sáng hơn, khát khao về một cuộc sống tốt đẹp hơn.

         Bên cạnh giá trị hiện thực, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” còn chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc và cao cả, xuất phát từ chính tấm lòng thương xót, cảm thông và tình cảm của tác giả đối với những số phận người dân nghèo nơi phố huyện. Qua cách miêu tả và kể chuyện về cuộc sống những con người trong phố huyện như gash hàng nước của mẹ con chị Tí, gánh phở của bác Siêu, quán tạp hóa của chị em Liên hay bà cụ Thi Điên, đã bộc lộ rõ tác giả xót xa biết bao trước cảnh nghèo đói, tăm tối “An và Liên ngửi thấy mùi phở thơm, nhưng ở cái huyện nhỏ này, quà bác Siêu là một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không bao giờ mua được”. Không chỉ cảm thương về sự nghèo khổ, tác giả còn cảm thấy thương cho cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu của người dân huyện, từ chính sự cảm thương đó Thạch Lam cũng phát hiện ra những phẩm chất tốt đẹp bên trong con người họ. Đó là sự chăm chỉ, cần cù, chịu thương chịu khó, dù nghèo khó nhưng vẫn cố gắng bươn chải, dù kiếm được chút ít vẫn cố gắng duy trì, vẫn luôn giàu lòng yêu thương với nhau và đặc biệt là vẫn luôn nuôi hy vọng và mơ ước về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn. Thạch Lam trân trọng những ước mơ, khát khao đó, mong muốn một chuyến tàu đi qua mang theo một thế giới mới, một thứ ánh sáng mới khác với ánh sáng từ bếp lửa của bác Siêu, ngọn đèn dầu của chị Tí và chị em Liên.

         Đọc truyện “Hai đứa trẻ” ta như được trở về với bối cảnh xã hội cũ năm 1945, cảm nhận rõ cái nghèo, cái đói bủa vây. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm đã cho người đọc thấy được tài năng và tấm lòng đáng quý của nhà văn Thạch Lam.

Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ – Bài mẫu 4

         Nhà văn Thạch Lam là một trong những cây bút chính của nhóm Tự lực văn đoàn. Những tác phẩm của ông đều gắn liền với những người nông dân, thân phận người dân éo le, khó khăn.

         Trong mỗi truyện ngắn của nhà văn Thạch Lam đều hiện thực của sống của mình. Tác phẩm Hai đứa trẻ là một tác phẩm thành công với truyện ngắn không có cốt truyện.

         Truyện ngắn Hai đứa trẻ không có cốt truyện tình tiết kịch tính ly kỳ hấp dẫn nhưng lại có những triết lý sống sâu sắc, thể hiện giá trị hiện thực, xoay quanh những số phận đau khổ sống trong bóng tối của nơi phố huyện nghèo.

         Sau khi đọc xong “Hai đứa trẻ” chúng ta thấy rằng toàn bộ câu chuyện thể hiện cuộc sống nghèo khổ xơ xác của những số phận con người leo lét nghèo khổ. Cuộc sống đó đã được tác giả Thạch Lam tái hiện vô cùng chân thực, tiêu biểu của một buổi chiều tàn lụi.

         Trong tiếng trống thu không kêu lên, phương Tây đỏ rực như lửa cháy, tiếng ếch nhái kêu từ cánh đồng không xa vang lên văng vẳng, những đám mây như hòn than sắp tàn…Thể hiện sự quan sát tinh tế, tỉ mỉ của của tác giả Thạch Lam.

         Một khoảng không gian mênh mang của bầu trời và đồng ruộng vừa đẹp lại buồn gợi ra trước mắt người đọc vô cùng hiện thực. Trong nền của bức tranh thiên nhiên con người đó cuộc sống của những người nông dân nghèo khổ được tác giả Thạch Lam vô cùng sâu sắc.

         Trong bối cảnh đó hai chị em Liên dọn dẹp lại cửa hàng tạp hóa của gia đình cộng lại số tiền ghi chép trong sổ sau mỗi ngày. Bà cụ Thi điên lại đến cửa hàng nhà Liên mua cút rượu, uống một ngụm hết sạch sành sanh hết rồi kêu lên tiếng cười khanh khách.

         Bác Siêu gánh hàng phở ra bếp lửa than đỏ bập bùng trong bóng tối. Bác hát Xẩm ngồi chờ đợi trong bóng tối. Rồi hai mẹ con nhà chị Tý dọn gánh hàng nước của mình. Tối nào chị cũng dọn từ sớm tới khuya cũng chẳng bán được là bao nhưng hôm nào chị cũng dọn hàng.

         Thông qua ngòi bút tinh tế, sâu sắc của mình nhà văn Thạch Lam đã miêu tả cuộc sống của những con người nơi đây vô cùng hiện thực, một phố huyện nghèo nàn đang thoi thóp trong cảnh chiều tàn.

         Đêm nào những con người nơi phố huyện nghèo khổ này để mong chờ một chuyến tàu đi qua. Một chuyến tàu từ Hà Nội mang theo chút ánh sáng, mang theo chút hy vọng cho những số phận con người nơi đây.

         Mỗi khi chiếc tàu đi qua tiếng còi và tiếng bánh xe rầm rộ hai chị em Liên có thể nhìn chuyến tàu với ánh sáng chói lóa vụt qua, chuyến tàu thể hiện sức hấp dẫn của nó vô cùng ngập tràn ánh sáng chiếu xuống phố huyện, làm cho phố huyện sáng bừng trong chốc lát.

         Trên chiếc tàu những toa tàu hạng sang sáng láng, cái nguồn sáng ấy vụt qua biến vào màn đêm tĩnh lặng nhưng vẫn mang lại cho những con người nhỏ bé nơi đây một chút niềm vui.

         Khi nhìn chuyến tàu đó trong lòng hai chị em Liên lại gợi lên những suy nghĩ về biến động của gia đình. Nó là những kỷ niệm xa xôi về ký ức một thời ở Hà Nội. Với hai chị em Liên con tàu đem một chút gì của một thế giới khác đi qua, một thế giới văn minh tươi sáng.

         Sau khi đọc xong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” người đọc không khỏi trằn trọc về số phận của những con người nơi đây. Hai chị em Liên và những người sống ở phố huyện mong chờ đoàn tàu tràn ngập ánh sáng, một chút gì mới mẻ đi qua.

         Bởi trong cuộc sống của người dân phố huyện chỉ có bóng tối vây quanh, cảnh đời xơ xác nghèo khổ, họ không có niềm vui, cuộc sống mưu sinh của họ đã quá nghèo khổ vô vị.

         Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn vô cùng hay và đặc sắc thể hiện phong cách của nhà văn Thạch Lam qua tác phẩm ta thấy rõ lòng nhân đạo và tính hiện thực của nhà văn Thạch Lam với những con người nông dân nghèo khó.

         Trong câu chuyện thể hiện màu sắc u tối đượm buồn nhưng nó thể hiện giá trị hiện thực của bối cảnh xã hội lúc đó.

—/—

Trên đây là một số bài văn mẫu Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ mà ĐH KD & CN Hà Nội đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em có một bài văn thật tốt!

Đăng bởi: ĐH KD & CN Hà Nội

Chuyên mục: Lớp 11, Ngữ Văn 11

Bạn thấy bài viết Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ

| Ngữ Văn 11 có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu  không hãy comment góp ý thêm về Giá trị hiện thực của Hai đứa trẻ

| Ngữ Văn 11 bên dưới để https://hubm.edu.vn/ có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website ĐH KD & CN Hà Nội

Nguồn: hubm.edu.vn

#Giá #trị #hiện #thực #của #Hai #đứa #trẻ #Ngữ #Văn

ĐH KD & CN Hà Nội

Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà nội là một trường dân lập, thuộc Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, được phép thành lập theo Quyết định số 405/TTg, ngày 15/6/1996 của Thủ tướng Chính phủ. Trường chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hệ thống văn bằng của Trường nằm trong hệ thống văn bằng quốc gia. Ngày 15/09/2006 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 750/QĐ-TTg về việc đổi tên trường thành Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button