1. Khái niệm phép biện chứng, phép biện chứng
Trong chủ nghĩa Mác – Lênin, khái niệm phép biện chứng chỉ những mối liên hệ, tác động qua lại, biến đổi và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và xã hội. Tư duy.
Phép biện chứng bao gồm phép biện chứng khách quan và phép biện chứng chủ quan. Phép biện chứng khách quan là phép biện chứng của thế giới vật chất, còn phép biện chứng chủ quan là sự phản ánh của phép biện chứng khách quan vào đời sống ý thức của con người.
Theo Ph.Ăngghen: “Cái gọi là biện chứng khách quan thống trị toàn bộ giới tự nhiên, còn cái gọi là biện chứng chủ quan, tức là tư duy biện chứng, chỉ phản ánh sự thống trị trong toàn bộ giới tự nhiên…”
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát phép biện chứng của thế giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Với ý nghĩa này, phép biện chứng thuộc phép biện chứng chủ quan, đồng thời nó cũng đối lập với phép siêu hình – phương pháp tư duy về các sự vật, hiện tượng của thế giới trong một trạng thái biệt lập và bất biến.
XEM CSONG: So Sánh Phương Pháp Biện Chứng Và Siêu Hình Học
2. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
Phép biện chứng đã phát triển qua ba hình thức, ba cấp độ cơ bản: phép biện chứng giản đơn thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Phép biện chứng sơ khai thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng. Nó là một nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại.
Tiêu biểu cho tư tưởng biện chứng của triết học Trung Quốc là “thuyết biến hóa” (học thuyết về những nguyên lý và quy luật biến đổi phổ biến trong vũ trụ) và “thuyết ngũ hành” (học thuyết về những nguyên lý biến đổi của vũ trụ). tương tác và biến đổi của các yếu tố bản thể trong vũ trụ) của Âm Dương gia.
XEM THÊM: Phép biện chứng đơn giản trong triết học Lão Tử
Trong triết học Ấn Độ, biểu hiện rõ nét nhất của tư tưởng biện chứng là triết học Phật giáo, với các phạm trù “vô ngã”, “vô thường”, “định mệnh”… Đặc biệt, triết học Hy Lạp cổ đại, hiện đại đã thể hiện sâu sắc tinh thần tự phát. phép biện chứng. Engels viết: “Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng tự nhiên, tự phát, và Aristotle, bộ óc bách khoa nhất trong số họ, cũng đã nghiên cứu những hình thức cơ bản nhất. Tư duy biện chứng… Thế giới quan nguyên thủy, ngây thơ nhưng đúng đắn về bản chất là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên được Heraclitus trình bày một cách rõ ràng. : vạn vật hiện hữu và đồng thời không hiện hữu, bởi vì vạn vật đều trôi qua, vạn vật không ngừng biến đổi, vạn vật không ngừng sinh diệt.
Tuy nhiên, những tư tưởng biện chứng đó về cơ bản vẫn còn ngây ngô, chất phác. Ph.Ăng-ghen nhận xét: “Trong nền triết học này, tư duy biện chứng xuất hiện với một sự giản dị tự nhiên, chưa bị những chướng ngại đáng yêu quấy rầy… Đó là do người Hy Lạp chưa đạt đến trình độ mổ xẻ, phân tích. giới tự nhiên nên họ vẫn quan niệm giới tự nhiên là một tổng thể và xem xét tổng thể đó dưới góc độ tổng thể. Mối liên hệ chung giữa các hiện tượng tự nhiên chưa được chứng minh cụ thể; Đối với họ, mối liên hệ đó là kết quả của sự quan sát trực tiếp.” Phép biện chứng giản đơn cổ đại đã nhận thức đúng đắn về tính biện chứng của thế giới, nhưng bằng trực giác thiên tài, bằng trực giác ngây thơ và non nớt, nó thiếu sự chứng minh bằng những thành tựu phát triển của khoa học tự nhiên.
Từ nửa sau thế kỷ XV, khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển mạnh mẽ, đi sâu vào việc phân tích, nghiên cứu từng yếu tố riêng lẻ của giới tự nhiên, dẫn đến sự ra đời của phương pháp siêu hình. Đến thế kỷ XVIII, phương pháp siêu hình trở thành phương pháp chủ đạo trong tư duy triết học và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, khi khoa học tự nhiên chuyển từ nghiên cứu các đối tượng riêng biệt sang nghiên cứu quá trình thống nhất của các đối tượng đó trong mối liên hệ thì phương pháp tư duy siêu hình không còn phù hợp nữa mà phải chuyển sang một hình thức tư duy mới cao hơn là tư duy biện chứng. .
Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được bắt đầu từ Kant và được hoàn thiện ở Hegel. Theo Engels: “Hình thức thứ hai của phép biện chứng, hình thức quen thuộc nhất đối với các nhà khoa học tự nhiên Đức, là triết học cổ điển Đức, từ Kant đến Hegel”.
Các nhà triết học Cổ điển Đức đã trình bày những tư tưởng cơ bản nhất của phép biện chứng duy tâm một cách có hệ thống. Tính duy tâm của triết học Hegel thể hiện ở chỗ, ông coi phép biện chứng là bước phát triển ban đầu của “ý niệm tuyệt đối”, coi phép biện chứng chủ quan là cơ sở của phép biện chứng khách quan. Theo Hegel, “ý niệm tuyệt đối” là khởi đầu của tồn tại, “luân phiên” chính nó vào giới tự nhiên và trở lại chính nó trong tồn tại tinh thần, “…tinh thần, tư tưởng, ý niệm là cái có trước, và thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép của ý niệm”. Các nhà triết học duy tâm Đức, mà đỉnh cao là Hegel, đã xây dựng phép biện chứng duy tâm với hệ thống các phạm trù, quy luật chung, logic chặt chẽ của ý thức và tinh thần. V. I. Lênin nói: “Hegel đã tài tình đoán phép biện chứng của sự vật (của hiện tượng, của thế giới, của tự nhiên) trong phép biện chứng của các khái niệm”. Ăng-ghen cũng nhấn mạnh tư tưởng của Mác: “Sự thần bí của phép biện chứng trong tay Hegel không có cách nào ngăn cản Hegel là người đầu tiên trình bày một cách toàn diện và có ý thức hình thức vận động chung của phép biện chứng. Ở Hegel, phép biện chứng lộn ngược. Nó chỉ cần được tái cấu trúc để lộ ra hạt nhân hợp lý đằng sau lớp vỏ bí ẩn của nó.”
Tính duy tâm trong phép biện chứng cổ điển Đức cũng như trong triết học Hêghen là một hạn chế cần phải khắc phục. Mác và Ăng-ghen đã khắc phục hạn chế đó để sáng tạo ra phép biện chứng duy vật. Đó là giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học, là sự kế thừa quan trọng của phép biện chứng cổ điển Đức. Có thể nói, hầu như chỉ có Mác và tôi là những người đã cứu phép biện chứng tự giác khỏi triết học duy tâm Đức và kết hợp nó vào quan niệm duy vật về tự nhiên và về lịch sử”.
XEM THÊM: Phép biện chứng duy vật
Xem thêm thông tin chi tiết về Phép biện chứng là gì? Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
Hình Ảnh về Phép biện chứng là gì? Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
Video về Phép biện chứng là gì? Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
Wiki về Phép biện chứng là gì? Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
Phép biện chứng là gì? Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
Phép biện chứng là gì? Các hình thức cơ bản của phép biện chứng -
1. Khái niệm phép biện chứng, phép biện chứng
Trong chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm phép biện chứng chỉ những mối liên hệ, tác động qua lại, biến đổi và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và xã hội. Tư duy.
Phép biện chứng bao gồm phép biện chứng khách quan và phép biện chứng chủ quan. Phép biện chứng khách quan là phép biện chứng của thế giới vật chất, còn phép biện chứng chủ quan là sự phản ánh của phép biện chứng khách quan vào đời sống ý thức của con người.
Theo Ph.Ăngghen: “Cái gọi là biện chứng khách quan thống trị toàn bộ giới tự nhiên, còn cái gọi là biện chứng chủ quan, tức là tư duy biện chứng, chỉ phản ánh sự thống trị trong toàn bộ giới tự nhiên…”
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát phép biện chứng của thế giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Với ý nghĩa này, phép biện chứng thuộc phép biện chứng chủ quan, đồng thời nó cũng đối lập với phép siêu hình - phương pháp tư duy về các sự vật, hiện tượng của thế giới trong một trạng thái biệt lập và bất biến.
XEM CSONG: So Sánh Phương Pháp Biện Chứng Và Siêu Hình Học
2. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
Phép biện chứng đã phát triển qua ba hình thức, ba cấp độ cơ bản: phép biện chứng giản đơn thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Phép biện chứng sơ khai thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng. Nó là một nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại.
Tiêu biểu cho tư tưởng biện chứng của triết học Trung Quốc là “thuyết biến hóa” (học thuyết về những nguyên lý và quy luật biến đổi phổ biến trong vũ trụ) và “thuyết ngũ hành” (học thuyết về những nguyên lý biến đổi của vũ trụ). tương tác và biến đổi của các yếu tố bản thể trong vũ trụ) của Âm Dương gia.
XEM THÊM: Phép biện chứng đơn giản trong triết học Lão Tử
Trong triết học Ấn Độ, biểu hiện rõ nét nhất của tư tưởng biện chứng là triết học Phật giáo, với các phạm trù “vô ngã”, “vô thường”, “định mệnh”... Đặc biệt, triết học Hy Lạp cổ đại, hiện đại đã thể hiện sâu sắc tinh thần tự phát. phép biện chứng. Engels viết: “Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng tự nhiên, tự phát, và Aristotle, bộ óc bách khoa nhất trong số họ, cũng đã nghiên cứu những hình thức cơ bản nhất. Tư duy biện chứng... Thế giới quan nguyên thủy, ngây thơ nhưng đúng đắn về bản chất là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên được Heraclitus trình bày một cách rõ ràng. : vạn vật hiện hữu và đồng thời không hiện hữu, bởi vì vạn vật đều trôi qua, vạn vật không ngừng biến đổi, vạn vật không ngừng sinh diệt.
Tuy nhiên, những tư tưởng biện chứng đó về cơ bản vẫn còn ngây ngô, chất phác. Ph.Ăng-ghen nhận xét: “Trong nền triết học này, tư duy biện chứng xuất hiện với một sự giản dị tự nhiên, chưa bị những chướng ngại đáng yêu quấy rầy… Đó là do người Hy Lạp chưa đạt đến trình độ mổ xẻ, phân tích. giới tự nhiên nên họ vẫn quan niệm giới tự nhiên là một tổng thể và xem xét tổng thể đó dưới góc độ tổng thể. Mối liên hệ chung giữa các hiện tượng tự nhiên chưa được chứng minh cụ thể; Đối với họ, mối liên hệ đó là kết quả của sự quan sát trực tiếp.” Phép biện chứng giản đơn cổ đại đã nhận thức đúng đắn về tính biện chứng của thế giới, nhưng bằng trực giác thiên tài, bằng trực giác ngây thơ và non nớt, nó thiếu sự chứng minh bằng những thành tựu phát triển của khoa học tự nhiên.
Từ nửa sau thế kỷ XV, khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển mạnh mẽ, đi sâu vào việc phân tích, nghiên cứu từng yếu tố riêng lẻ của giới tự nhiên, dẫn đến sự ra đời của phương pháp siêu hình. Đến thế kỷ XVIII, phương pháp siêu hình trở thành phương pháp chủ đạo trong tư duy triết học và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, khi khoa học tự nhiên chuyển từ nghiên cứu các đối tượng riêng biệt sang nghiên cứu quá trình thống nhất của các đối tượng đó trong mối liên hệ thì phương pháp tư duy siêu hình không còn phù hợp nữa mà phải chuyển sang một hình thức tư duy mới cao hơn là tư duy biện chứng. .
Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được bắt đầu từ Kant và được hoàn thiện ở Hegel. Theo Engels: "Hình thức thứ hai của phép biện chứng, hình thức quen thuộc nhất đối với các nhà khoa học tự nhiên Đức, là triết học cổ điển Đức, từ Kant đến Hegel".
Các nhà triết học Cổ điển Đức đã trình bày những tư tưởng cơ bản nhất của phép biện chứng duy tâm một cách có hệ thống. Tính duy tâm của triết học Hegel thể hiện ở chỗ, ông coi phép biện chứng là bước phát triển ban đầu của “ý niệm tuyệt đối”, coi phép biện chứng chủ quan là cơ sở của phép biện chứng khách quan. Theo Hegel, “ý niệm tuyệt đối” là khởi đầu của tồn tại, “luân phiên” chính nó vào giới tự nhiên và trở lại chính nó trong tồn tại tinh thần, “...tinh thần, tư tưởng, ý niệm là cái có trước, và thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép của ý niệm". Các nhà triết học duy tâm Đức, mà đỉnh cao là Hegel, đã xây dựng phép biện chứng duy tâm với hệ thống các phạm trù, quy luật chung, logic chặt chẽ của ý thức và tinh thần. V. I. Lênin nói: "Hegel đã tài tình đoán phép biện chứng của sự vật (của hiện tượng, của thế giới, của tự nhiên) trong phép biện chứng của các khái niệm". Ăng-ghen cũng nhấn mạnh tư tưởng của Mác: "Sự thần bí của phép biện chứng trong tay Hegel không có cách nào ngăn cản Hegel là người đầu tiên trình bày một cách toàn diện và có ý thức hình thức vận động chung của phép biện chứng. Ở Hegel, phép biện chứng lộn ngược. Nó chỉ cần được tái cấu trúc để lộ ra hạt nhân hợp lý đằng sau lớp vỏ bí ẩn của nó."
Tính duy tâm trong phép biện chứng cổ điển Đức cũng như trong triết học Hêghen là một hạn chế cần phải khắc phục. Mác và Ăng-ghen đã khắc phục hạn chế đó để sáng tạo ra phép biện chứng duy vật. Đó là giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học, là sự kế thừa quan trọng của phép biện chứng cổ điển Đức. Có thể nói, hầu như chỉ có Mác và tôi là những người đã cứu phép biện chứng tự giác khỏi triết học duy tâm Đức và kết hợp nó vào quan niệm duy vật về tự nhiên và về lịch sử”.
XEM THÊM: Phép biện chứng duy vật
[rule_{ruleNumber}]
Bạn thấy bài viết Phép biện chứng là gì? Các hình thức cơ bản của phép biện chứng có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về Phép biện chứng là gì? Các hình thức cơ bản của phép biện chứng bên dưới để https://hubm.edu.vn/ có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website ĐH KD & CN Hà Nội
Nguồn: ĐH KD & CN Hà Nội
#Phép #biện #chứng #là #gì #Các #hình #thức #cơ #bản #của #phép #biện #chứng
Trả lời