Sáng tạo là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta. Không chỉ những người làm nghệ thuật phải không ngừng sáng tạo mà những người hoạt động trong các ngành nghề khác nhau cũng sử dụng nó trong công việc hàng ngày. Chúng ta có thể kiểm soát suy nghĩ của bộ não bằng cách nắm bắt và thực hành, đó là cách giúp chúng ta có những ý tưởng thú vị, hữu ích cho học tập, công việc và cuộc sống.

1. Khái niệm sáng tạo
Theo từ điển triết học, Sáng tạo là quá trình hoạt động của con người tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần và phẩm chất mới. Các loại hình sáng tạo do đặc điểm nghề nghiệp quy định như khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật, tổ chức, quân sự,… Có thể nói, sáng tạo có mặt trong mọi lĩnh vực của thế giới vật chất và tinh thần. (Phan Dũng).
Bản chất của sự sáng tạo là tính mới của nó, và do đó chúng ta không có tiêu chuẩn nào để đánh giá nó (Carl Roger).
Nhà tâm lý học Liên Xô Vygotsky đã khẳng định: “Sáng tạo thực sự không chỉ ở chỗ nó tạo ra những công trình lịch sử vĩ đại, mà ở mọi nơi con người tưởng tượng, phối hợp, biến đổi và sáng tạo ra cái mới, cho dù cái mới đó có nhỏ bé đến đâu so với những sáng tạo của các thiên tài” . Trong cuộc sống hàng ngày xoay quanh chúng ta, sáng tạo là điều kiện cần thiết để tồn tại, và mọi thứ vượt qua khuôn khổ cũ và chứa đựng dù chỉ một chút dấu vết của cái mới, thì nguồn gốc của nó đều giống nhau. do con người tạo ra.
Sáng tạo cũng có nghĩa là tạo ra giá trị mới, giá trị mới đó có ích hay có hại tùy thuộc vào quan điểm của người sử dụng và đối tượng tiếp nhận tác dụng của việc sử dụng. Ở đây, chúng tôi luôn coi giá trị mới là hữu ích đối với đối tượng nhận tác dụng của việc sử dụng nó.
Theo GS.TS Phạm Thanh Nghị, có thể coi sáng tạo là quá trình tiến tới cái mới, là khả năng tạo ra cái mới, tính sáng tạo được đánh giá trên cơ sở sản phẩm mới, độc đáo và có giá trị.
Theo TS Huỳnh Văn Sơn, sáng tạo bao gồm 3 thuộc tính cơ bản:
– Độ tươi: Sáng tạo phải tạo ra cái mới, cái mới đối với cá nhân hay cái mới đối với xã hội.
– Độc lập – độc lập: Độc lập – độc lập tồn tại trong cả suy nghĩ và hành động. Không phải là cá nhân, đơn độc mà vẫn có thể có sự hợp tác của nhiều cá nhân mặc dù mỗi cá nhân vẫn giữ được sự độc lập của mình trong sự phối hợp.
Ở đây, bất kỳ cá nhân hay tổ chức – nhóm nào tạo ra ý tưởng, khám phá ý tưởng cũng bắt đầu từ việc phải độc lập suy nghĩ và đấu tranh. Nhờ độc lập suy nghĩ, sáng tạo lấy đó làm tiền đề nảy sinh những giải pháp mới.
– Lợi ích: Sáng tạo phải tạo ra cái mới, nhưng cái mới đó phải đảm bảo hiện thực, phục vụ lợi ích của con người và xã hội.
Từ những quan điểm về sáng tạo nêu trên, chúng tôi xin đưa ra cách hiểu về sáng tạo được sử dụng trong tài liệu này:
“Sáng tạo có thể được tiếp cận từ góc độ hoạt động của con người, hoặc tiếp cận từ góc độ nhân cách. Sáng tạo được hiểu là tìm ra cái mới, giải pháp mới, có giá trị. Cái mới, giá trị thể hiện trong ý tưởng, trong cách giải quyết vấn đề, trong sản phẩm có thể diễn ra ở cấp độ cá nhân và/hoặc cấp độ xã hội, dựa trên sự độc lập về tư tưởng. tư duy và hoạt động của con người”.
Sáng tạo gắn liền với sự thay đổi, đưa ra cái mới (innovation), phát minh, ý tưởng mới, phương án mới. Sáng tạo thuộc về khả năng đưa ra quyết định, sự kết hợp hoặc liên kết độc đáo, để tạo ra những ý tưởng đạt được kết quả mới và có lợi. Mọi người có thể sử dụng khả năng sáng tạo của mình để đặt câu hỏi một cách rộng rãi, phát triển các lựa chọn, làm phong phú thêm các khả năng và tưởng tượng những hậu quả có thể xảy ra. Điều bạn làm được mới, khác biệt và hữu ích, đó chính là sự sáng tạo. Sự sáng tạo nảy sinh ở mọi tầng lớp xã hội và ở mọi giai đoạn của cuộc đời chúng ta.
2. Mức độ sáng tạo
Sự sáng tạo có thể được thể hiện ở các mức độ khác nhau. Sáng tạo có thể được chia thành năm cấp độ:
– Thể hiện sáng tạo: là biểu hiện ra bên ngoài của các mối liên hệ, liên tưởng trong đời sống hàng ngày, trong sản phẩm lao động. Tính sáng tạo ở mức độ này được thể hiện trong giao tiếp như diễn đạt ý tưởng một cách hóm hỉnh, cải thiện quan hệ lao động, đời sống, chi tiết mới trong sản phẩm, v.v.
– Phát minh: là sự sáng tạo ra những đồ dùng, công cụ mới chưa từng có trong tự nhiên và trong đời sống con người dựa trên những tri thức do khoa học khám phá ra cũng như những kinh nghiệm thu được trong cuộc sống.
– Sự phát minh: là sự phát hiện ra những quy luật của sự vật, hiện tượng có sẵn trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Những quy luật này đang vận hành, đang tồn tại nhưng con người, nhân loại chưa phát hiện ra trước đó.
– Sáng tạo ở cấp độ đổi mới: là những thay đổi do tạo ra những chuyển biến, đột phá về khoa học và công nghệ, những thay đổi trong xã hội thông qua những phát minh, sáng chế trên nhiều lĩnh vực hay những thay đổi trong nhận thức, cách xử lý tình huống một cách tổng thể với sự tham gia của nhiều nhà khoa học, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. công nghệ để cải thiện thực hành.
Sáng tạo có thể tạo ra các lĩnh vực và ngành nghề mới.
3. Ba thành phần của sự sáng tạo
Nhà khoa học Teresa Amabile tin rằng sự sáng tạo bao gồm 3 thành phần: (1) trình độ kiến thức; (2) Kỹ năng tư duy sáng tạo; (3) Động cơ.

Trình độ kiến thức: Rõ ràng, để tạo ra phần mềm mới, người lập trình phải hiểu rất rõ về kỹ thuật lập trình cũng như cách thức và quy trình để tạo ra phần mềm. Những nhà soạn nhạc thiên tài phải có một kiến thức âm nhạc vô cùng uyên bác. Vì vậy, càng có nhiều kiến thức về một lĩnh vực nào đó thì khả năng sáng tạo của chúng ta trong lĩnh vực đó càng cao. Vì vậy, có một định nghĩa khác cho sự sáng tạo là “khả năng sắp xếp những thứ hiện có theo một trật tự mới”. Nguyên liệu cho sự sáng tạo là kiến thức sẵn có, và kiến thức này là nền tảng cho cách suy nghĩ của mỗi người. Kiến thức là nền tảng cho những ý tưởng mới. Tuy nhiên, kiến thức chỉ là điều kiện cần của sáng tạo chứ không phải là tất cả. Hầu hết chúng ta đã từng gặp những người có kiến thức sâu rộng nhưng vẫn không thể nảy ra một ý tưởng sáng tạo nào. Kiến thức đó chỉ nằm trong đầu họ vì họ không bao giờ nghĩ về nó theo một hướng mới. Vì vậy, một điều quan trọng khác để trở nên sáng tạo nằm ở những gì chúng ta làm với kiến thức của mình, hay nói cách khác là kỹ năng tư duy sáng tạo.
Kỹ năng tư duy sáng tạo: được xem như cách con người tiếp cận vấn đề một cách linh hoạt và giàu trí tưởng tượng. Các giải pháp mà họ nghĩ đến có tiềm năng vượt ra ngoài suy nghĩ thông thường. Thuật ngữ này được mô tả là khả năng “suy nghĩ vượt ra ngoài khuôn khổ”, tức là những suy nghĩ vượt ra ngoài những thói quen thông thường mà chúng ta gặp phải hàng ngày.
Động cơ được hiểu là những yếu tố thúc đẩy cá nhân tìm ra giải pháp sáng tạo. Nó quy định phương hướng, mục đích và cường độ của hoạt động, thể hiện ở tinh thần say mê, tích cực được tạo ra chủ yếu bởi hứng thú, sự thỏa mãn nhu cầu chiếm lĩnh những ý tưởng mới, phức tạp. và thử thách với chính sự sáng tạo.
Người Việt Nam có câu “cái khó ló cái khôn”. Câu này có nghĩa là khi chúng ta ở trong một tình huống khó khăn, chúng ta có động lực để đưa ra những ý tưởng để giải quyết vấn đề của mình. Động lực có thể là hướng nội hoặc hướng ngoại. Các yếu tố bên ngoài như môi trường khuyến khích, phần thưởng hay chế tài là những yếu tố có thể thúc đẩy cá nhân phát huy khả năng sáng tạo của mình. Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những động lực nội tại như niềm đam mê nội tại đối với một lĩnh vực nào đó có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự sáng tạo. Điều này được Daniel Pink chứng minh trong cuốn sách Động lực 3.0 của ông. Con người tiến hóa từ Động lực 1.0 là động cơ sinh tồn sang Động lực 2.0 là “cây gậy và củ cà rốt” – tức là động lực bên ngoài, và giờ là động lực 3.0 – động lực bên trong mỗi người. Trong thế kỷ 21, công việc ngày càng đòi hỏi sự sáng tạo, vì vậy các công ty phải tạo cho nhân viên tinh thần say mê với công việc họ đang làm.
Phân tích trên cho thấy tính sáng tạo có thể học được từ việc phát triển ba yếu tố: kiến thức, kỹ năng tư duy sáng tạo và động lực.
Thứ nhất, chúng tôi hiểu rằng để sáng tạo trong bất kỳ lĩnh vực nào thì trước hết chúng ta phải am hiểu kiến thức chuyên ngành trong lĩnh vực đó. Suy cho cùng, sáng tạo là có khả năng vận dụng tri thức của nhân loại để phục vụ cuộc sống một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. Chỉ bằng cách hiểu nền tảng khoa học hiện tại, chúng ta mới có thể đưa ra ý tưởng.
Thứ hai, chúng ta cần rèn luyện kỹ năng tư duy sáng tạo để có cách tiếp cận vấn đề mềm dẻo, linh hoạt và giàu trí tưởng tượng.
Thứ ba, chúng ta cần tạo cho mình động lực, đặc biệt là động lực bên trong và là động lực để phát huy tính sáng tạo trong môi trường học tập cũng như môi trường làm việc.
4. Đặc điểm của người sáng tạo
Rút ra từ nghiên cứu về sự sáng tạo, những người sáng tạo đều có chung đặc điểm là thay vì giải quyết vấn đề, họ đam mê và nhạy cảm, và trên hết là cởi mở với những trải nghiệm. mới mẻ, thoải mái và ham học hỏi… Những đặc điểm này có thể tìm thấy ngay cả từ những người nông dân không được đào tạo bài bản qua trường lớp nhưng lại có nhiều sáng chế ứng dụng thiết thực trong cuộc sống cho đến những chuyên gia trong lĩnh vực này. khu vực cụ thể. Các đặc điểm tính cách quyết định tiềm năng sáng tạo hơn là chỉ số IQ hay kết quả học tập.
Dưới đây là một số đặc điểm tiêu biểu của người sáng tạo:
- Khát khao những trải nghiệm mới, phức tạp và tìm kiếm sự đa dạng trong mọi khía cạnh của cuộc sống.
- Kiến thức được giáo dục là cần thiết để phát hiện ra những cơ hội mới hoặc diễn giải các sự kiện như những cơ hội đầy hứa hẹn. Trái ngược với suy nghĩ của nhiều người, hầu hết những người sáng tạo thành công không phải là những thiên tài từng bỏ học mà là những chuyên gia được đào tạo trong lĩnh vực của họ. Hoặc ngay cả khi không được đào tạo bài bản ở trường lớp thì sự tìm tòi, khám phá và tự học cũng giúp họ có kiến thức vững chắc và phong phú trong lĩnh vực của mình.
- Chủ động và kiên trì, điều này cho phép họ khai thác các cơ hội mà họ xác định được. Trên tất cả, họ – những người sáng tạo hiệu quả – có định hướng cao và tràn đầy năng lượng so với những người khác.
- Nhạy cảm trong việc nhìn nhận cái khó, cái đã biết và cái chưa biết.
- Nhận ra tiềm năng: Những người bình thường – những người không tin rằng họ có thể sáng tạo, những người sợ hãi hoặc chống lại sự sáng tạo hoặc tư duy sáng tạo thường thích làm việc trong giới hạn với những ý tưởng mới. khả năng hạn chế hơn. Những người sáng tạo thích quan sát nhiều khả năng hoặc thậm chí vô hạn trong hầu hết các tình huống hoặc thử thách.
5. Công cụ sáng tạo
- Động não (làm việc trí óc)
- LỪA ĐẢO
- Sơ đồ tư duy
- “6 chiếc mũ tư duy”
Xem thêm: Những cách giúp cá nhân sáng tạo hơn
“Tôi không thông minh hơn bất kỳ người bình thường nào. Đơn giản là tôi tò mò hơn người bình thường và tôi không từ bỏ một vấn đề nào cho đến khi tìm ra câu trả lời. Bạn có thể coi tôi là người kiên nhẫn hơn người bình thường khi theo đuổi các bài toán. Không phải thông minh hơn mới là quan trọng, mà là tò mò hơn và có lẽ kiên nhẫn hơn khi giải quyết vấn đề. Tôi không có bất kỳ năng lực tư duy đặc biệt mạnh mẽ nào (“cơ não”), thậm chí ở một mức độ khiêm tốn. Nhiều người có nhiều hơn thế mà không mang lại điều gì đáng ngạc nhiên.”. Albert Einstein.
Tài liệu tham khảo: Kỹ năng tư duy sáng tạo, Viện Nghiên cứu Kinh tế Ứng dụng, Trường Đại học Tài chính Marketing.
Xem thêm thông tin chi tiết về Sáng tạo là gì? Thành phần & Các cấp độ sáng tạo
Hình Ảnh về Sáng tạo là gì? Thành phần & Các cấp độ sáng tạo
Video về Sáng tạo là gì? Thành phần & Các cấp độ sáng tạo
Wiki về Sáng tạo là gì? Thành phần & Các cấp độ sáng tạo
Sáng tạo là gì? Thành phần & Các cấp độ sáng tạo
Sáng tạo là gì? Thành phần & Các cấp độ sáng tạo -
Sáng tạo là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta. Không chỉ những người làm nghệ thuật phải không ngừng sáng tạo mà những người hoạt động trong các ngành nghề khác nhau cũng sử dụng nó trong công việc hàng ngày. Chúng ta có thể kiểm soát suy nghĩ của bộ não bằng cách nắm bắt và thực hành, đó là cách giúp chúng ta có những ý tưởng thú vị, hữu ích cho học tập, công việc và cuộc sống.

1. Khái niệm sáng tạo
Theo từ điển triết học, Sáng tạo là quá trình hoạt động của con người tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần và phẩm chất mới. Các loại hình sáng tạo do đặc điểm nghề nghiệp quy định như khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật, tổ chức, quân sự,… Có thể nói, sáng tạo có mặt trong mọi lĩnh vực của thế giới vật chất và tinh thần. (Phan Dũng).
Bản chất của sự sáng tạo là tính mới của nó, và do đó chúng ta không có tiêu chuẩn nào để đánh giá nó (Carl Roger).
Nhà tâm lý học Liên Xô Vygotsky đã khẳng định: “Sáng tạo thực sự không chỉ ở chỗ nó tạo ra những công trình lịch sử vĩ đại, mà ở mọi nơi con người tưởng tượng, phối hợp, biến đổi và sáng tạo ra cái mới, cho dù cái mới đó có nhỏ bé đến đâu so với những sáng tạo của các thiên tài” . Trong cuộc sống hàng ngày xoay quanh chúng ta, sáng tạo là điều kiện cần thiết để tồn tại, và mọi thứ vượt qua khuôn khổ cũ và chứa đựng dù chỉ một chút dấu vết của cái mới, thì nguồn gốc của nó đều giống nhau. do con người tạo ra.
Sáng tạo cũng có nghĩa là tạo ra giá trị mới, giá trị mới đó có ích hay có hại tùy thuộc vào quan điểm của người sử dụng và đối tượng tiếp nhận tác dụng của việc sử dụng. Ở đây, chúng tôi luôn coi giá trị mới là hữu ích đối với đối tượng nhận tác dụng của việc sử dụng nó.
Theo GS.TS Phạm Thanh Nghị, có thể coi sáng tạo là quá trình tiến tới cái mới, là khả năng tạo ra cái mới, tính sáng tạo được đánh giá trên cơ sở sản phẩm mới, độc đáo và có giá trị.
Theo TS Huỳnh Văn Sơn, sáng tạo bao gồm 3 thuộc tính cơ bản:
- Độ tươi: Sáng tạo phải tạo ra cái mới, cái mới đối với cá nhân hay cái mới đối với xã hội.
– Độc lập – độc lập: Độc lập – độc lập tồn tại trong cả suy nghĩ và hành động. Không phải là cá nhân, đơn độc mà vẫn có thể có sự hợp tác của nhiều cá nhân mặc dù mỗi cá nhân vẫn giữ được sự độc lập của mình trong sự phối hợp.
Ở đây, bất kỳ cá nhân hay tổ chức - nhóm nào tạo ra ý tưởng, khám phá ý tưởng cũng bắt đầu từ việc phải độc lập suy nghĩ và đấu tranh. Nhờ độc lập suy nghĩ, sáng tạo lấy đó làm tiền đề nảy sinh những giải pháp mới.
- Lợi ích: Sáng tạo phải tạo ra cái mới, nhưng cái mới đó phải đảm bảo hiện thực, phục vụ lợi ích của con người và xã hội.
Từ những quan điểm về sáng tạo nêu trên, chúng tôi xin đưa ra cách hiểu về sáng tạo được sử dụng trong tài liệu này:
“Sáng tạo có thể được tiếp cận từ góc độ hoạt động của con người, hoặc tiếp cận từ góc độ nhân cách. Sáng tạo được hiểu là tìm ra cái mới, giải pháp mới, có giá trị. Cái mới, giá trị thể hiện trong ý tưởng, trong cách giải quyết vấn đề, trong sản phẩm có thể diễn ra ở cấp độ cá nhân và/hoặc cấp độ xã hội, dựa trên sự độc lập về tư tưởng. tư duy và hoạt động của con người”.
Sáng tạo gắn liền với sự thay đổi, đưa ra cái mới (innovation), phát minh, ý tưởng mới, phương án mới. Sáng tạo thuộc về khả năng đưa ra quyết định, sự kết hợp hoặc liên kết độc đáo, để tạo ra những ý tưởng đạt được kết quả mới và có lợi. Mọi người có thể sử dụng khả năng sáng tạo của mình để đặt câu hỏi một cách rộng rãi, phát triển các lựa chọn, làm phong phú thêm các khả năng và tưởng tượng những hậu quả có thể xảy ra. Điều bạn làm được mới, khác biệt và hữu ích, đó chính là sự sáng tạo. Sự sáng tạo nảy sinh ở mọi tầng lớp xã hội và ở mọi giai đoạn của cuộc đời chúng ta.
2. Mức độ sáng tạo
Sự sáng tạo có thể được thể hiện ở các mức độ khác nhau. Sáng tạo có thể được chia thành năm cấp độ:
- Thể hiện sáng tạo: là biểu hiện ra bên ngoài của các mối liên hệ, liên tưởng trong đời sống hàng ngày, trong sản phẩm lao động. Tính sáng tạo ở mức độ này được thể hiện trong giao tiếp như diễn đạt ý tưởng một cách hóm hỉnh, cải thiện quan hệ lao động, đời sống, chi tiết mới trong sản phẩm, v.v.
- Phát minh: là sự sáng tạo ra những đồ dùng, công cụ mới chưa từng có trong tự nhiên và trong đời sống con người dựa trên những tri thức do khoa học khám phá ra cũng như những kinh nghiệm thu được trong cuộc sống.
- Sự phát minh: là sự phát hiện ra những quy luật của sự vật, hiện tượng có sẵn trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Những quy luật này đang vận hành, đang tồn tại nhưng con người, nhân loại chưa phát hiện ra trước đó.
– Sáng tạo ở cấp độ đổi mới: là những thay đổi do tạo ra những chuyển biến, đột phá về khoa học và công nghệ, những thay đổi trong xã hội thông qua những phát minh, sáng chế trên nhiều lĩnh vực hay những thay đổi trong nhận thức, cách xử lý tình huống một cách tổng thể với sự tham gia của nhiều nhà khoa học, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. công nghệ để cải thiện thực hành.
Sáng tạo có thể tạo ra các lĩnh vực và ngành nghề mới.
3. Ba thành phần của sự sáng tạo
Nhà khoa học Teresa Amabile tin rằng sự sáng tạo bao gồm 3 thành phần: (1) trình độ kiến thức; (2) Kỹ năng tư duy sáng tạo; (3) Động cơ.

Trình độ kiến thức: Rõ ràng, để tạo ra phần mềm mới, người lập trình phải hiểu rất rõ về kỹ thuật lập trình cũng như cách thức và quy trình để tạo ra phần mềm. Những nhà soạn nhạc thiên tài phải có một kiến thức âm nhạc vô cùng uyên bác. Vì vậy, càng có nhiều kiến thức về một lĩnh vực nào đó thì khả năng sáng tạo của chúng ta trong lĩnh vực đó càng cao. Vì vậy, có một định nghĩa khác cho sự sáng tạo là "khả năng sắp xếp những thứ hiện có theo một trật tự mới". Nguyên liệu cho sự sáng tạo là kiến thức sẵn có, và kiến thức này là nền tảng cho cách suy nghĩ của mỗi người. Kiến thức là nền tảng cho những ý tưởng mới. Tuy nhiên, kiến thức chỉ là điều kiện cần của sáng tạo chứ không phải là tất cả. Hầu hết chúng ta đã từng gặp những người có kiến thức sâu rộng nhưng vẫn không thể nảy ra một ý tưởng sáng tạo nào. Kiến thức đó chỉ nằm trong đầu họ vì họ không bao giờ nghĩ về nó theo một hướng mới. Vì vậy, một điều quan trọng khác để trở nên sáng tạo nằm ở những gì chúng ta làm với kiến thức của mình, hay nói cách khác là kỹ năng tư duy sáng tạo.
Kỹ năng tư duy sáng tạo: được xem như cách con người tiếp cận vấn đề một cách linh hoạt và giàu trí tưởng tượng. Các giải pháp mà họ nghĩ đến có tiềm năng vượt ra ngoài suy nghĩ thông thường. Thuật ngữ này được mô tả là khả năng “suy nghĩ vượt ra ngoài khuôn khổ”, tức là những suy nghĩ vượt ra ngoài những thói quen thông thường mà chúng ta gặp phải hàng ngày.
Động cơ được hiểu là những yếu tố thúc đẩy cá nhân tìm ra giải pháp sáng tạo. Nó quy định phương hướng, mục đích và cường độ của hoạt động, thể hiện ở tinh thần say mê, tích cực được tạo ra chủ yếu bởi hứng thú, sự thỏa mãn nhu cầu chiếm lĩnh những ý tưởng mới, phức tạp. và thử thách với chính sự sáng tạo.
Người Việt Nam có câu “cái khó ló cái khôn”. Câu này có nghĩa là khi chúng ta ở trong một tình huống khó khăn, chúng ta có động lực để đưa ra những ý tưởng để giải quyết vấn đề của mình. Động lực có thể là hướng nội hoặc hướng ngoại. Các yếu tố bên ngoài như môi trường khuyến khích, phần thưởng hay chế tài là những yếu tố có thể thúc đẩy cá nhân phát huy khả năng sáng tạo của mình. Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những động lực nội tại như niềm đam mê nội tại đối với một lĩnh vực nào đó có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự sáng tạo. Điều này được Daniel Pink chứng minh trong cuốn sách Động lực 3.0 của ông. Con người tiến hóa từ Động lực 1.0 là động cơ sinh tồn sang Động lực 2.0 là “cây gậy và củ cà rốt” - tức là động lực bên ngoài, và giờ là động lực 3.0 - động lực bên trong mỗi người. Trong thế kỷ 21, công việc ngày càng đòi hỏi sự sáng tạo, vì vậy các công ty phải tạo cho nhân viên tinh thần say mê với công việc họ đang làm.
Phân tích trên cho thấy tính sáng tạo có thể học được từ việc phát triển ba yếu tố: kiến thức, kỹ năng tư duy sáng tạo và động lực.
Thứ nhất, chúng tôi hiểu rằng để sáng tạo trong bất kỳ lĩnh vực nào thì trước hết chúng ta phải am hiểu kiến thức chuyên ngành trong lĩnh vực đó. Suy cho cùng, sáng tạo là có khả năng vận dụng tri thức của nhân loại để phục vụ cuộc sống một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. Chỉ bằng cách hiểu nền tảng khoa học hiện tại, chúng ta mới có thể đưa ra ý tưởng.
Thứ hai, chúng ta cần rèn luyện kỹ năng tư duy sáng tạo để có cách tiếp cận vấn đề mềm dẻo, linh hoạt và giàu trí tưởng tượng.
Thứ ba, chúng ta cần tạo cho mình động lực, đặc biệt là động lực bên trong và là động lực để phát huy tính sáng tạo trong môi trường học tập cũng như môi trường làm việc.
4. Đặc điểm của người sáng tạo
Rút ra từ nghiên cứu về sự sáng tạo, những người sáng tạo đều có chung đặc điểm là thay vì giải quyết vấn đề, họ đam mê và nhạy cảm, và trên hết là cởi mở với những trải nghiệm. mới mẻ, thoải mái và ham học hỏi… Những đặc điểm này có thể tìm thấy ngay cả từ những người nông dân không được đào tạo bài bản qua trường lớp nhưng lại có nhiều sáng chế ứng dụng thiết thực trong cuộc sống cho đến những chuyên gia trong lĩnh vực này. khu vực cụ thể. Các đặc điểm tính cách quyết định tiềm năng sáng tạo hơn là chỉ số IQ hay kết quả học tập.
Dưới đây là một số đặc điểm tiêu biểu của người sáng tạo:
- Khát khao những trải nghiệm mới, phức tạp và tìm kiếm sự đa dạng trong mọi khía cạnh của cuộc sống.
- Kiến thức được giáo dục là cần thiết để phát hiện ra những cơ hội mới hoặc diễn giải các sự kiện như những cơ hội đầy hứa hẹn. Trái ngược với suy nghĩ của nhiều người, hầu hết những người sáng tạo thành công không phải là những thiên tài từng bỏ học mà là những chuyên gia được đào tạo trong lĩnh vực của họ. Hoặc ngay cả khi không được đào tạo bài bản ở trường lớp thì sự tìm tòi, khám phá và tự học cũng giúp họ có kiến thức vững chắc và phong phú trong lĩnh vực của mình.
- Chủ động và kiên trì, điều này cho phép họ khai thác các cơ hội mà họ xác định được. Trên tất cả, họ – những người sáng tạo hiệu quả – có định hướng cao và tràn đầy năng lượng so với những người khác.
- Nhạy cảm trong việc nhìn nhận cái khó, cái đã biết và cái chưa biết.
- Nhận ra tiềm năng: Những người bình thường – những người không tin rằng họ có thể sáng tạo, những người sợ hãi hoặc chống lại sự sáng tạo hoặc tư duy sáng tạo thường thích làm việc trong giới hạn với những ý tưởng mới. khả năng hạn chế hơn. Những người sáng tạo thích quan sát nhiều khả năng hoặc thậm chí vô hạn trong hầu hết các tình huống hoặc thử thách.
5. Công cụ sáng tạo
- Động não (làm việc trí óc)
- LỪA ĐẢO
- Sơ đồ tư duy
- “6 chiếc mũ tư duy”
Xem thêm: Những cách giúp cá nhân sáng tạo hơn
“Tôi không thông minh hơn bất kỳ người bình thường nào. Đơn giản là tôi tò mò hơn người bình thường và tôi không từ bỏ một vấn đề nào cho đến khi tìm ra câu trả lời. Bạn có thể coi tôi là người kiên nhẫn hơn người bình thường khi theo đuổi các bài toán. Không phải thông minh hơn mới là quan trọng, mà là tò mò hơn và có lẽ kiên nhẫn hơn khi giải quyết vấn đề. Tôi không có bất kỳ năng lực tư duy đặc biệt mạnh mẽ nào ("cơ não"), thậm chí ở một mức độ khiêm tốn. Nhiều người có nhiều hơn thế mà không mang lại điều gì đáng ngạc nhiên.”. Albert Einstein.
Tài liệu tham khảo: Kỹ năng tư duy sáng tạo, Viện Nghiên cứu Kinh tế Ứng dụng, Trường Đại học Tài chính Marketing.
[rule_{ruleNumber}]
Trả lời