Giáo Dục

sơ đồ tư duy về tác giả Nam Cao | Ngữ Văn 11

Câu hỏi: Bản đồ tư duy của tác giả Nam Cao

Câu trả lời:

sơ đồ tư duy về tác giả Nam Cao

 | Ngữ Văn 11

Cùng trường ĐH KD & CN Hà Nội tìm hiểu thêm về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả Nam Cao trong bài viết dưới đây nhé!

1. Tiểu sử Nhà văn hiện thực phê phán Nam Cao

Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, các bút danh khác là Nam Cao, Thụy Ru, Xuân Du, Nguyệt. Ông là một nhà văn hiện thực lớn và một nhà báo kháng chiến. Ông được coi là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của Việt Nam thế kỷ XX. Nửa đầu thế kỷ 20, Nhà văn Nam Cao là người có công trong việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết. Bút danh Nam Cao là sự kết hợp của hai chữ cái tên tỉnh và huyện quê hương ông.

Khi còn trẻ, Nam Cao học ở làng và thành phố Nam Định. Sau khi học xong cấp 3, anh chuyển vào Sài Gòn sống gần ba năm với một người chú. Từ năm 1936, ông bắt đầu viết bài trên các báo: Tiểu thuyết thứ bảy, bổ ích … Năm 1938, ông dạy học ở một trường ở ngoại thành Hà Nội và viết báo.

Năm 1941, ông dạy học tại Thái Bình. Năm 1942, ông trở về quê hương và tiếp tục viết. Năm 1943, Nam Cao tham gia Hội Văn hóa cứu quốc và tham gia phong trào Việt Minh ở địa phương. Cách mạng tháng Tám (1945), ông tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở phủ Lý Nhân, được cử làm Chủ tịch xã.

Năm 1946, ông chuyển ra Hà Nội, hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc và là Chủ bút tạp chí Tiền Phong của Hội. Cũng trong năm này, anh vào Nam bộ làm phóng viên, hoạt động ở Duyên hải Nam Trung bộ một thời gian. Sau đó, anh về công tác tại Sở Văn hóa Hà Nam.

Mùa thu năm 1947, Nam Cao lên chiến khu Việt Bắc, làm phóng viên báo Cửu quốc, thư ký tòa soạn báo Cửu quốc Việt Bắc. Năm 1948, Nam Cao gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1950, ông nhận công tác tại tạp chí Văn nghệ (thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam) và là Ủy viên Ban Văn nghệ Trung ương.

Ngày 30/11/1951, trên đường đi công tác trong vùng hậu cứ của địch liên khu III, Nam Cao cùng đoàn cán bộ thuế nông nghiệp bị địch phục kích và anh dũng hy sinh. Anh ngã xuống khi bản thảo cuối cùng của “The Norms” còn chưa khô.

Với 15 năm cầm bút, ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn học đồ sộ với 2 tiểu thuyết, 50 truyện ngắn, bút ký …, trong đó có những nhân vật như lão Hạc, cô giáo Thu, Bá Kiến, Thị Nở, Chí Phèo … không thể xóa nhòa trong tâm trí của độc giả qua nhiều thế hệ.

* Nhà văn hàng đầu của chủ nghĩa hiện thực

Nam Cao viết truyện đầu tay khi chưa tròn 20 tuổi, viết tác phẩm xuất sắc Chí Phèo năm 26 tuổi, viết tiểu thuyết Sống ở tuổi 29 và viết tiểu luận về chỉ tiêu phục vụ kháng chiến (1951 ). Với 15 năm cầm bút, ông đã để lại cho đời một số lượng lớn tác phẩm, đặc biệt trong hệ thống tác phẩm của ông nổi bật lên một phong cách Nam Cao trữ tình, sâu sắc, trữ tình, man mác, hóm hỉnh. mà tinh tế, sang trọng mà đơn giản, tinh tế mà tổng quát.

Có cả chất văn, tâm huyết, tài năng lớn lao của một khát vọng nhân văn cao cả mà nhà văn giao phó cho cuộc đời. Có thể chia sự nghiệp văn học của Nam Cao thành hai thời kỳ rõ rệt: trước cách mạng và sau cách mạng.

* Giải thưởng và Danh hiệu

– Năm 1996, ông nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật.

– Tên của nhà văn Nam Cao đã được đặt cho nhiều đường phố ở Việt Nam như: Quận Ba Đình – Thành phố Hà Nội, Quận 9 – Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Đà Nẵng, Thành phố Biên Hòa – Tỉnh Đồng Nai, Thành phố Rạch Giá – Kiên Tỉnh Giang và một số địa phương khác.

Bản đồ tư duy của tác giả Nam Cao hay nhất (ảnh 2)

– Tên anh còn được đặt cho một số trường cấp 3 và dành cho khu đại học ở Hà Nam.

2. Quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nam Cao

Quan điểm về nghệ thuật vì lợi ích của con người

Với Nam Cao – “nghệ thuật không nên là ánh sáng trắng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ phát ra từ những kiếp người khốn khổ”. Ông cho rằng nghệ thuật không được tách rời hiện thực mà phải là chất liệu từ cuộc sống và mục đích của nó là phục vụ con người, phục vụ cuộc sống của chúng ta. Trước khi nhà văn muốn thể hiện cuộc sống của mình trên giấy, phải nhìn vào cuộc sống của người dân, lên án những thói hư tật xấu, những bất công trong xã hội, đồng cảm với nhân dân. là nghệ thuật.

Sống đã, viết

Một nhà văn cần phải có một trải nghiệm sâu sắc về cuộc sống và con người trước khi anh ta có thể viết về các tác phẩm nghệ thuật. Vì đồng cảm với nhân vật là điều cần thiết trong việc khai thác nội tâm của nhân vật, nên người viết phải có cái nhìn đa chiều về một sự việc là điều cần làm trong nghệ thuật.

3. Những đề tài thường được nhà văn Nam Cao khai thác

Trước Cách mạng tháng Tám

Trước cách mạng tháng Tám, Nam Cao viết về hai hình tượng chính là người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Ở những người trí thức nghèo, ông đã khai thác và làm rõ những bi kịch mà họ phải gánh chịu trong xã hội những năm 1945. Bằng tài năng đồng cảm sâu sắc của mình, Nam Cao đã khắc họa hình ảnh người trí thức nghèo một cách rất chân thực. một xã hội đầy đau khổ. Với những người nông dân nghèo.

Người nông dân nghèo trong tác phẩm của Nam Cao được khắc họa rất gần gũi và chân thực. Họ là những người thuộc tầng lớp thấp, nhưng cách viết của Nam Cao ở đây có gì đặc biệt? Đó là khi sống trong cảnh nghèo khó, bị đối xử bất công, họ vẫn khao khát được sống lương thiện.

Nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm “Chí Phèo” là một điển hình cho hình ảnh người nông dân nghèo khổ bị xã hội đẩy xuống đáy và trở nên côn đồ, hư hỏng. Với hình ảnh Chí Phèo “chuyên rạch mặt ăn vạ” Chí Phèo đã mang đến cho người đọc sự đồng cảm sâu sắc bởi đằng sau lời nguyền ấy là khát khao được nghe tiếng nói của đồng loại, Chí chửi chứ ai. Đáp lại. Tiếng chửi nói lên nỗi đau đớn tột cùng của một tâm hồn muốn trở về với lương tâm, câu nói “Ai cho ta lương thiện” thể hiện khát vọng được sống làm người chân chính của Chí cùng với sự bế tắc trong bi kịch của cuộc đời Chí. Cuộc sống của anh ấy.

Sau Cách mạng tháng Tám

Sau cách mạng tháng Tám, Năm Cam tích cực tham gia hoạt động kháng chiến nên cách khai thác, xây dựng hình tượng nhân vật trong các câu văn của ông có nhiều thay đổi, ông đã có hướng đi. mới cho các nhân vật của nó.

4. Một số công trình tiêu biểu

Những tác phẩm như Chí Phèo, Lão Hạc: Viết về những người nông dân nghèo khổ bị đày đọa đến cùng, mất đi bản chất lương thiện vốn có. Đồng thời lên án tội ác của bọn thực dân phong kiến ​​và sự tàn ác của xã hội bấy giờ. Bên cạnh đó, các tác phẩm luôn đề cao phẩm chất tốt đẹp của những người nông dân chân chất, thật thà, chất phác.

Một số tác phẩm khác như Sống mòn, Đời thừa: Tác phẩm viết về tầng lớp nghèo tri thức, có ước mơ, hoài bão, lý tưởng nhưng bị tiền bạc, địa vị trong xã hội ngăn cách nên lâm vào cảnh bế tắc, không lối thoát.

Đăng bởi: Trường ĐH KD & CN Hà Nội

Chuyên mục: Văn lớp 11, Ngữ văn 11

Thông tin cần xem thêm:

Hình Ảnh về sơ đồ tư duy về tác giả Nam Cao

| Ngữ Văn 11

Video về sơ đồ tư duy về tác giả Nam Cao

| Ngữ Văn 11

Wiki về sơ đồ tư duy về tác giả Nam Cao

| Ngữ Văn 11

sơ đồ tư duy về tác giả Nam Cao

| Ngữ Văn 11

sơ đồ tư duy về tác giả Nam Cao

| Ngữ Văn 11 –

Câu hỏi: Bản đồ tư duy của tác giả Nam Cao

Câu trả lời:

sơ đồ tư duy về tác giả Nam Cao

 | Ngữ Văn 11

Cùng trường ĐH KD & CN Hà Nội tìm hiểu thêm về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả Nam Cao trong bài viết dưới đây nhé!

1. Tiểu sử Nhà văn hiện thực phê phán Nam Cao

Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, các bút danh khác là Nam Cao, Thụy Ru, Xuân Du, Nguyệt. Ông là một nhà văn hiện thực lớn và một nhà báo kháng chiến. Ông được coi là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của Việt Nam thế kỷ XX. Nửa đầu thế kỷ 20, Nhà văn Nam Cao là người có công trong việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết. Bút danh Nam Cao là sự kết hợp của hai chữ cái tên tỉnh và huyện quê hương ông.

Khi còn trẻ, Nam Cao học ở làng và thành phố Nam Định. Sau khi học xong cấp 3, anh chuyển vào Sài Gòn sống gần ba năm với một người chú. Từ năm 1936, ông bắt đầu viết bài trên các báo: Tiểu thuyết thứ bảy, bổ ích … Năm 1938, ông dạy học ở một trường ở ngoại thành Hà Nội và viết báo.

Năm 1941, ông dạy học tại Thái Bình. Năm 1942, ông trở về quê hương và tiếp tục viết. Năm 1943, Nam Cao tham gia Hội Văn hóa cứu quốc và tham gia phong trào Việt Minh ở địa phương. Cách mạng tháng Tám (1945), ông tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở phủ Lý Nhân, được cử làm Chủ tịch xã.


Năm 1946, ông chuyển ra Hà Nội, hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc và là Chủ bút tạp chí Tiền Phong của Hội. Cũng trong năm này, anh vào Nam bộ làm phóng viên, hoạt động ở Duyên hải Nam Trung bộ một thời gian. Sau đó, anh về công tác tại Sở Văn hóa Hà Nam.

Mùa thu năm 1947, Nam Cao lên chiến khu Việt Bắc, làm phóng viên báo Cửu quốc, thư ký tòa soạn báo Cửu quốc Việt Bắc. Năm 1948, Nam Cao gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1950, ông nhận công tác tại tạp chí Văn nghệ (thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam) và là Ủy viên Ban Văn nghệ Trung ương.

Ngày 30/11/1951, trên đường đi công tác trong vùng hậu cứ của địch liên khu III, Nam Cao cùng đoàn cán bộ thuế nông nghiệp bị địch phục kích và anh dũng hy sinh. Anh ngã xuống khi bản thảo cuối cùng của “The Norms” còn chưa khô.

Với 15 năm cầm bút, ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn học đồ sộ với 2 tiểu thuyết, 50 truyện ngắn, bút ký …, trong đó có những nhân vật như lão Hạc, cô giáo Thu, Bá Kiến, Thị Nở, Chí Phèo … không thể xóa nhòa trong tâm trí của độc giả qua nhiều thế hệ.

* Nhà văn hàng đầu của chủ nghĩa hiện thực

Nam Cao viết truyện đầu tay khi chưa tròn 20 tuổi, viết tác phẩm xuất sắc Chí Phèo năm 26 tuổi, viết tiểu thuyết Sống ở tuổi 29 và viết tiểu luận về chỉ tiêu phục vụ kháng chiến (1951 ). Với 15 năm cầm bút, ông đã để lại cho đời một số lượng lớn tác phẩm, đặc biệt trong hệ thống tác phẩm của ông nổi bật lên một phong cách Nam Cao trữ tình, sâu sắc, trữ tình, man mác, hóm hỉnh. mà tinh tế, sang trọng mà đơn giản, tinh tế mà tổng quát.

Có cả chất văn, tâm huyết, tài năng lớn lao của một khát vọng nhân văn cao cả mà nhà văn giao phó cho cuộc đời. Có thể chia sự nghiệp văn học của Nam Cao thành hai thời kỳ rõ rệt: trước cách mạng và sau cách mạng.

* Giải thưởng và Danh hiệu

– Năm 1996, ông nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật.

– Tên của nhà văn Nam Cao đã được đặt cho nhiều đường phố ở Việt Nam như: Quận Ba Đình – Thành phố Hà Nội, Quận 9 – Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Đà Nẵng, Thành phố Biên Hòa – Tỉnh Đồng Nai, Thành phố Rạch Giá – Kiên Tỉnh Giang và một số địa phương khác.

Bản đồ tư duy của tác giả Nam Cao hay nhất (ảnh 2)

– Tên anh còn được đặt cho một số trường cấp 3 và dành cho khu đại học ở Hà Nam.

2. Quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nam Cao

Quan điểm về nghệ thuật vì lợi ích của con người

Với Nam Cao – “nghệ thuật không nên là ánh sáng trắng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ phát ra từ những kiếp người khốn khổ”. Ông cho rằng nghệ thuật không được tách rời hiện thực mà phải là chất liệu từ cuộc sống và mục đích của nó là phục vụ con người, phục vụ cuộc sống của chúng ta. Trước khi nhà văn muốn thể hiện cuộc sống của mình trên giấy, phải nhìn vào cuộc sống của người dân, lên án những thói hư tật xấu, những bất công trong xã hội, đồng cảm với nhân dân. là nghệ thuật.

Sống đã, viết

Một nhà văn cần phải có một trải nghiệm sâu sắc về cuộc sống và con người trước khi anh ta có thể viết về các tác phẩm nghệ thuật. Vì đồng cảm với nhân vật là điều cần thiết trong việc khai thác nội tâm của nhân vật, nên người viết phải có cái nhìn đa chiều về một sự việc là điều cần làm trong nghệ thuật.

3. Những đề tài thường được nhà văn Nam Cao khai thác

Trước Cách mạng tháng Tám

Trước cách mạng tháng Tám, Nam Cao viết về hai hình tượng chính là người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Ở những người trí thức nghèo, ông đã khai thác và làm rõ những bi kịch mà họ phải gánh chịu trong xã hội những năm 1945. Bằng tài năng đồng cảm sâu sắc của mình, Nam Cao đã khắc họa hình ảnh người trí thức nghèo một cách rất chân thực. một xã hội đầy đau khổ. Với những người nông dân nghèo.

Người nông dân nghèo trong tác phẩm của Nam Cao được khắc họa rất gần gũi và chân thực. Họ là những người thuộc tầng lớp thấp, nhưng cách viết của Nam Cao ở đây có gì đặc biệt? Đó là khi sống trong cảnh nghèo khó, bị đối xử bất công, họ vẫn khao khát được sống lương thiện.

Nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm “Chí Phèo” là một điển hình cho hình ảnh người nông dân nghèo khổ bị xã hội đẩy xuống đáy và trở nên côn đồ, hư hỏng. Với hình ảnh Chí Phèo “chuyên rạch mặt ăn vạ” Chí Phèo đã mang đến cho người đọc sự đồng cảm sâu sắc bởi đằng sau lời nguyền ấy là khát khao được nghe tiếng nói của đồng loại, Chí chửi chứ ai. Đáp lại. Tiếng chửi nói lên nỗi đau đớn tột cùng của một tâm hồn muốn trở về với lương tâm, câu nói “Ai cho ta lương thiện” thể hiện khát vọng được sống làm người chân chính của Chí cùng với sự bế tắc trong bi kịch của cuộc đời Chí. Cuộc sống của anh ấy.

Sau Cách mạng tháng Tám

Sau cách mạng tháng Tám, Năm Cam tích cực tham gia hoạt động kháng chiến nên cách khai thác, xây dựng hình tượng nhân vật trong các câu văn của ông có nhiều thay đổi, ông đã có hướng đi. mới cho các nhân vật của nó.

4. Một số công trình tiêu biểu

Những tác phẩm như Chí Phèo, Lão Hạc: Viết về những người nông dân nghèo khổ bị đày đọa đến cùng, mất đi bản chất lương thiện vốn có. Đồng thời lên án tội ác của bọn thực dân phong kiến ​​và sự tàn ác của xã hội bấy giờ. Bên cạnh đó, các tác phẩm luôn đề cao phẩm chất tốt đẹp của những người nông dân chân chất, thật thà, chất phác.

Một số tác phẩm khác như Sống mòn, Đời thừa: Tác phẩm viết về tầng lớp nghèo tri thức, có ước mơ, hoài bão, lý tưởng nhưng bị tiền bạc, địa vị trong xã hội ngăn cách nên lâm vào cảnh bế tắc, không lối thoát.

Đăng bởi: Trường ĐH KD & CN Hà Nội

Chuyên mục: Văn lớp 11, Ngữ văn 11

 

[rule_{ruleNumber}]

Câu hỏi: Bản đồ tư duy của tác giả Nam Cao

Câu trả lời:

sơ đồ tư duy về tác giả Nam Cao

 | Ngữ Văn 11

Cùng trường ĐH KD & CN Hà Nội tìm hiểu thêm về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả Nam Cao trong bài viết dưới đây nhé!

1. Tiểu sử Nhà văn hiện thực phê phán Nam Cao

Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, các bút danh khác là Nam Cao, Thụy Ru, Xuân Du, Nguyệt. Ông là một nhà văn hiện thực lớn và một nhà báo kháng chiến. Ông được coi là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của Việt Nam thế kỷ XX. Nửa đầu thế kỷ 20, Nhà văn Nam Cao là người có công trong việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết. Bút danh Nam Cao là sự kết hợp của hai chữ cái tên tỉnh và huyện quê hương ông.

Khi còn trẻ, Nam Cao học ở làng và thành phố Nam Định. Sau khi học xong cấp 3, anh chuyển vào Sài Gòn sống gần ba năm với một người chú. Từ năm 1936, ông bắt đầu viết bài trên các báo: Tiểu thuyết thứ bảy, bổ ích … Năm 1938, ông dạy học ở một trường ở ngoại thành Hà Nội và viết báo.

Năm 1941, ông dạy học tại Thái Bình. Năm 1942, ông trở về quê hương và tiếp tục viết. Năm 1943, Nam Cao tham gia Hội Văn hóa cứu quốc và tham gia phong trào Việt Minh ở địa phương. Cách mạng tháng Tám (1945), ông tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở phủ Lý Nhân, được cử làm Chủ tịch xã.


Năm 1946, ông chuyển ra Hà Nội, hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc và là Chủ bút tạp chí Tiền Phong của Hội. Cũng trong năm này, anh vào Nam bộ làm phóng viên, hoạt động ở Duyên hải Nam Trung bộ một thời gian. Sau đó, anh về công tác tại Sở Văn hóa Hà Nam.

Mùa thu năm 1947, Nam Cao lên chiến khu Việt Bắc, làm phóng viên báo Cửu quốc, thư ký tòa soạn báo Cửu quốc Việt Bắc. Năm 1948, Nam Cao gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1950, ông nhận công tác tại tạp chí Văn nghệ (thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam) và là Ủy viên Ban Văn nghệ Trung ương.

Ngày 30/11/1951, trên đường đi công tác trong vùng hậu cứ của địch liên khu III, Nam Cao cùng đoàn cán bộ thuế nông nghiệp bị địch phục kích và anh dũng hy sinh. Anh ngã xuống khi bản thảo cuối cùng của “The Norms” còn chưa khô.

Với 15 năm cầm bút, ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn học đồ sộ với 2 tiểu thuyết, 50 truyện ngắn, bút ký …, trong đó có những nhân vật như lão Hạc, cô giáo Thu, Bá Kiến, Thị Nở, Chí Phèo … không thể xóa nhòa trong tâm trí của độc giả qua nhiều thế hệ.

* Nhà văn hàng đầu của chủ nghĩa hiện thực

Nam Cao viết truyện đầu tay khi chưa tròn 20 tuổi, viết tác phẩm xuất sắc Chí Phèo năm 26 tuổi, viết tiểu thuyết Sống ở tuổi 29 và viết tiểu luận về chỉ tiêu phục vụ kháng chiến (1951 ). Với 15 năm cầm bút, ông đã để lại cho đời một số lượng lớn tác phẩm, đặc biệt trong hệ thống tác phẩm của ông nổi bật lên một phong cách Nam Cao trữ tình, sâu sắc, trữ tình, man mác, hóm hỉnh. mà tinh tế, sang trọng mà đơn giản, tinh tế mà tổng quát.

Có cả chất văn, tâm huyết, tài năng lớn lao của một khát vọng nhân văn cao cả mà nhà văn giao phó cho cuộc đời. Có thể chia sự nghiệp văn học của Nam Cao thành hai thời kỳ rõ rệt: trước cách mạng và sau cách mạng.

* Giải thưởng và Danh hiệu

– Năm 1996, ông nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật.

– Tên của nhà văn Nam Cao đã được đặt cho nhiều đường phố ở Việt Nam như: Quận Ba Đình – Thành phố Hà Nội, Quận 9 – Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Đà Nẵng, Thành phố Biên Hòa – Tỉnh Đồng Nai, Thành phố Rạch Giá – Kiên Tỉnh Giang và một số địa phương khác.

Bản đồ tư duy của tác giả Nam Cao hay nhất (ảnh 2)

– Tên anh còn được đặt cho một số trường cấp 3 và dành cho khu đại học ở Hà Nam.

2. Quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nam Cao

Quan điểm về nghệ thuật vì lợi ích của con người

Với Nam Cao – “nghệ thuật không nên là ánh sáng trắng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ phát ra từ những kiếp người khốn khổ”. Ông cho rằng nghệ thuật không được tách rời hiện thực mà phải là chất liệu từ cuộc sống và mục đích của nó là phục vụ con người, phục vụ cuộc sống của chúng ta. Trước khi nhà văn muốn thể hiện cuộc sống của mình trên giấy, phải nhìn vào cuộc sống của người dân, lên án những thói hư tật xấu, những bất công trong xã hội, đồng cảm với nhân dân. là nghệ thuật.

Sống đã, viết

Một nhà văn cần phải có một trải nghiệm sâu sắc về cuộc sống và con người trước khi anh ta có thể viết về các tác phẩm nghệ thuật. Vì đồng cảm với nhân vật là điều cần thiết trong việc khai thác nội tâm của nhân vật, nên người viết phải có cái nhìn đa chiều về một sự việc là điều cần làm trong nghệ thuật.

3. Những đề tài thường được nhà văn Nam Cao khai thác

Trước Cách mạng tháng Tám

Trước cách mạng tháng Tám, Nam Cao viết về hai hình tượng chính là người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Ở những người trí thức nghèo, ông đã khai thác và làm rõ những bi kịch mà họ phải gánh chịu trong xã hội những năm 1945. Bằng tài năng đồng cảm sâu sắc của mình, Nam Cao đã khắc họa hình ảnh người trí thức nghèo một cách rất chân thực. một xã hội đầy đau khổ. Với những người nông dân nghèo.

Người nông dân nghèo trong tác phẩm của Nam Cao được khắc họa rất gần gũi và chân thực. Họ là những người thuộc tầng lớp thấp, nhưng cách viết của Nam Cao ở đây có gì đặc biệt? Đó là khi sống trong cảnh nghèo khó, bị đối xử bất công, họ vẫn khao khát được sống lương thiện.

Nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm “Chí Phèo” là một điển hình cho hình ảnh người nông dân nghèo khổ bị xã hội đẩy xuống đáy và trở nên côn đồ, hư hỏng. Với hình ảnh Chí Phèo “chuyên rạch mặt ăn vạ” Chí Phèo đã mang đến cho người đọc sự đồng cảm sâu sắc bởi đằng sau lời nguyền ấy là khát khao được nghe tiếng nói của đồng loại, Chí chửi chứ ai. Đáp lại. Tiếng chửi nói lên nỗi đau đớn tột cùng của một tâm hồn muốn trở về với lương tâm, câu nói “Ai cho ta lương thiện” thể hiện khát vọng được sống làm người chân chính của Chí cùng với sự bế tắc trong bi kịch của cuộc đời Chí. Cuộc sống của anh ấy.

Sau Cách mạng tháng Tám

Sau cách mạng tháng Tám, Năm Cam tích cực tham gia hoạt động kháng chiến nên cách khai thác, xây dựng hình tượng nhân vật trong các câu văn của ông có nhiều thay đổi, ông đã có hướng đi. mới cho các nhân vật của nó.

4. Một số công trình tiêu biểu

Những tác phẩm như Chí Phèo, Lão Hạc: Viết về những người nông dân nghèo khổ bị đày đọa đến cùng, mất đi bản chất lương thiện vốn có. Đồng thời lên án tội ác của bọn thực dân phong kiến ​​và sự tàn ác của xã hội bấy giờ. Bên cạnh đó, các tác phẩm luôn đề cao phẩm chất tốt đẹp của những người nông dân chân chất, thật thà, chất phác.

Một số tác phẩm khác như Sống mòn, Đời thừa: Tác phẩm viết về tầng lớp nghèo tri thức, có ước mơ, hoài bão, lý tưởng nhưng bị tiền bạc, địa vị trong xã hội ngăn cách nên lâm vào cảnh bế tắc, không lối thoát.

Đăng bởi: Trường ĐH KD & CN Hà Nội

Chuyên mục: Văn lớp 11, Ngữ văn 11

Bạn thấy bài viết sơ đồ tư duy về tác giả Nam Cao

| Ngữ Văn 11 có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu  không hãy comment góp ý thêm về sơ đồ tư duy về tác giả Nam Cao

| Ngữ Văn 11 bên dưới để https://hubm.edu.vn/ có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website ĐH KD & CN Hà Nội

Nguồn: hubm.edu.vn

#sơ #đồ #tư #duy #về #tác #giả #Nam #Cao #Ngữ #Văn

ĐH KD & CN Hà Nội

Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà nội là một trường dân lập, thuộc Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, được phép thành lập theo Quyết định số 405/TTg, ngày 15/6/1996 của Thủ tướng Chính phủ. Trường chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hệ thống văn bằng của Trường nằm trong hệ thống văn bằng quốc gia. Ngày 15/09/2006 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 750/QĐ-TTg về việc đổi tên trường thành Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button