Tổng Hợp

Sức lao động và Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động

(Cập nhật lần cuối vào: 02/04/2022 bởi Lytuong.net)

Sự chuyển hóa của tiền thành tư bản, không thể phát sinh từ chính tiền. Vì trong mua bán hàng hoá, tiền chỉ là phương tiện lưu thông để thực hiện giá cả của hàng hoá nên giá trị của nó trước sau không đổi. Sự biến đổi đó phải diễn ra ở hàng hoá trong quá trình vận động của tư bản. Nhưng sự chuyển hoá đó không diễn ra ở giá trị trao đổi của hàng hoá, vì khi trao đổi người ta trao đổi những thứ có giá trị ngang nhau, mà chỉ ở giá trị sử dụng của hàng hoá. Vì vậy, hàng hóa đó không thể là hàng hóa thông thường mà phải là hàng hóa đặc biệt, giá trị sử dụng của nó có đặc điểm là nguồn gốc của giá trị, hơn nữa còn sinh ra giá trị lớn. nhiều hơn giá trị của nó. Hàng hoá cụ thể đó là sức lao động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản.

Sức lao động và sự chuyển hoá sức lao động thành hàng hoá

C.Mác viết: “sức lao động hay sức lao động là tổng thể những năng lực vật chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, ở một người sống và được người đó sử dụng khi sản xuất ra những giá trị sử dụng nào đó”.

Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất. Nhưng sức lao động không phải lúc nào cũng là hàng hoá, nó chỉ được chuyển hoá thành hàng hoá trong những điều kiện lịch sử nhất định, đó là:

Người đầu tiên, người lao động phải được tự do về thể chất. Sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hoá nếu nó được chào bán bởi chính bản thân người có sức lao động. Vì vậy, người lao động phải được tự do về thể chất, có quyền sở hữu sức lao động của mình, để bán sức lao động của mình. Trong xã hội nô lệ và phong kiến, nô lệ và nông nô không thể bán sức lao động, vì bản thân họ thuộc sở hữu của chủ nô hoặc lãnh chúa phong kiến. Do đó, việc chuyển hóa sức lao động thành hàng hóa đòi hỏi phải xóa bỏ chế độ nô lệ và chế độ nông nô.

Thứ haiNgười lao động bị tước đoạt mọi tư liệu sản xuất. Nếu chỉ có điều kiện người lao động được tự do về vật chất thì chưa đủ để biến sức lao động thành hàng hóa, vì nếu người lao động được tự do về vật chất mà có tư liệu sản xuất thì họ sẽ sản xuất ra hàng hóa. sản xuất hàng hoá và bán hàng hoá do mình sản xuất ra chứ không phải sức lao động. Vì vậy, muốn biến sức lao động thành hàng hóa thì người lao động phải là người không có tư liệu sản xuất, chỉ trong điều kiện đó người lao động mới có thể bán sức lao động của mình, vì họ không có con đường nào khác là phải kiếm sống. cuộc sống.

Sự tồn tại đồng thời của hai điều kiện này tất yếu biến sức lao động thành hàng hoá. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để biến thành tư bản, tuy nhiên, để tiền biến thành tư bản thì lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ phải phát triển ở một mức độ nhất định. Chuyển hoá sức lao động thành hàng hoá là nhân tố đánh dấu một giai đoạn mới của quá trình phát triển sản xuất hàng hoá thành hình thức phổ biến của sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Lao động cưỡng bức phi kinh tế trong chế độ nô lệ và phong kiến ​​đã được thay thế bằng hợp đồng mua bán chính thức giữa chủ sở hữu sức lao động và chủ sở hữu tư liệu sản xuất.

Hai thuộc tính của sức lao động hàng hóa:

Cũng như các hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.

+ Giá trị của sức lao động hàng hoá Nó còn được quyết định bởi thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động. Nhưng sức lao động chỉ tồn tại với tư cách là năng lực sống của con người, để tái sản xuất sức lao động đó người lao động phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định.

Như vậy, thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất sức lao động sẽ được giảm xuống thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh sống đó; nói cách khác, giá trị của sức lao động hàng hóa được đo lường gián tiếp bằng giá trị của tư liệu cung cấp cho quá trình tái sản xuất sức lao động.

Là hàng hoá đặc biệt, giá trị sức lao động hàng hoá khác với công ích ở chỗ nó bao hàm cả yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử. Điều đó có nghĩa là ngoài những nhu cầu về vật chất, người lao động còn có những nhu cầu về văn hóa tinh thần … Những nhu cầu đó phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ, phụ thuộc vào cả điều kiện địa lý, khí hậu của quốc gia đó và mức độ của sự thỏa mãn những nhu cầu đó phần lớn phụ thuộc vào mức độ văn minh đạt được của mỗi quốc gia.

Mặc dù giá trị của sức lao động hàng hóa bao gồm các yếu tố tinh thần và lịch sử, nhưng đối với một quốc gia nhất định và trong một thời kỳ nhất định, quy mô của phương tiện sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng, do đó giá trị của sức lao động hàng hóa có thể được xác định.

Giá trị của hàng hoá sức lao động được cấu thành bởi các bộ phận sau đây:

Một làgiá trị của phương tiện sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động và duy trì đời sống của người lao động;

Hai làchi phí đào tạo công nhân;

Ba là, giá trị của những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con em người lao động.

Muốn biết sự thay đổi của giá trị sức lao động trong một thời kỳ nhất định phải nghiên cứu hai loại nhân tố có tác động ngược chiều đến sự thay đổi của giá trị sức lao động. Một mặt, sự gia tăng nhu cầu bình quân của xã hội về hàng hoá và dịch vụ, về trình độ học vấn và kỹ năng đã làm tăng giá trị sức lao động; mặt khác năng suất lao động xã hội tăng lên cũng làm giảm giá trị sức lao động.

Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản ngày nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, sự khác biệt của người lao động về trình độ tay nghề, mức độ phức tạp trong lao động và khả năng sử dụng năng lực trí óc của họ càng tăng lên. Tất cả những điều này không thể không ảnh hưởng đến giá trị sức lao động, tất yếu dẫn đến sự chênh lệch giá trị sức lao động theo ngành và theo lĩnh vực của nền kinh tế, nhưng chúng ẩn sau bức tranh lớn. giá trị sức lao động bình quân.

+ Giá trị sử dụng của sức lao động hàng hoá chỉ biểu hiện ở quá trình tiêu hao sức lao động, tức là quá trình lao động của người lao động. Quá trình đó là quá trình sản xuất ra một loạt hàng hoá nhất định; đồng thời là quá trình tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân sức lao động hàng hoá. Phần lớn hơn là giá trị thặng dư bị nhà tư bản chiếm đoạt. Như vậy, giá trị sử dụng của sức lao động hàng hoá có tính chất đặc biệt là nguồn gốc của giá trị, tức là nó có thể tạo ra những giá trị mới lớn hơn giá trị của chính nó. Đó là điểm mấu chốt để giải thích mâu thuẫn của công thức chung của tư bản.

Xem thêm thông tin chi tiết về Sức lao động và Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động

Hình Ảnh về Sức lao động và Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động

Video về Sức lao động và Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động

Wiki về Sức lao động và Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động

Sức lao động và Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động

Sức lao động và Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động -

(Cập nhật lần cuối vào: 02/04/2022 bởi Lytuong.net)

Sự chuyển hóa của tiền thành tư bản, không thể phát sinh từ chính tiền. Vì trong mua bán hàng hoá, tiền chỉ là phương tiện lưu thông để thực hiện giá cả của hàng hoá nên giá trị của nó trước sau không đổi. Sự biến đổi đó phải diễn ra ở hàng hoá trong quá trình vận động của tư bản. Nhưng sự chuyển hoá đó không diễn ra ở giá trị trao đổi của hàng hoá, vì khi trao đổi người ta trao đổi những thứ có giá trị ngang nhau, mà chỉ ở giá trị sử dụng của hàng hoá. Vì vậy, hàng hóa đó không thể là hàng hóa thông thường mà phải là hàng hóa đặc biệt, giá trị sử dụng của nó có đặc điểm là nguồn gốc của giá trị, hơn nữa còn sinh ra giá trị lớn. nhiều hơn giá trị của nó. Hàng hoá cụ thể đó là sức lao động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản.

Sức lao động và sự chuyển hoá sức lao động thành hàng hoá

C.Mác viết: “sức lao động hay sức lao động là tổng thể những năng lực vật chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, ở một người sống và được người đó sử dụng khi sản xuất ra những giá trị sử dụng nào đó”.

Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất. Nhưng sức lao động không phải lúc nào cũng là hàng hoá, nó chỉ được chuyển hoá thành hàng hoá trong những điều kiện lịch sử nhất định, đó là:

Người đầu tiên, người lao động phải được tự do về thể chất. Sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hoá nếu nó được chào bán bởi chính bản thân người có sức lao động. Vì vậy, người lao động phải được tự do về thể chất, có quyền sở hữu sức lao động của mình, để bán sức lao động của mình. Trong xã hội nô lệ và phong kiến, nô lệ và nông nô không thể bán sức lao động, vì bản thân họ thuộc sở hữu của chủ nô hoặc lãnh chúa phong kiến. Do đó, việc chuyển hóa sức lao động thành hàng hóa đòi hỏi phải xóa bỏ chế độ nô lệ và chế độ nông nô.

Thứ haiNgười lao động bị tước đoạt mọi tư liệu sản xuất. Nếu chỉ có điều kiện người lao động được tự do về vật chất thì chưa đủ để biến sức lao động thành hàng hóa, vì nếu người lao động được tự do về vật chất mà có tư liệu sản xuất thì họ sẽ sản xuất ra hàng hóa. sản xuất hàng hoá và bán hàng hoá do mình sản xuất ra chứ không phải sức lao động. Vì vậy, muốn biến sức lao động thành hàng hóa thì người lao động phải là người không có tư liệu sản xuất, chỉ trong điều kiện đó người lao động mới có thể bán sức lao động của mình, vì họ không có con đường nào khác là phải kiếm sống. cuộc sống.

Sự tồn tại đồng thời của hai điều kiện này tất yếu biến sức lao động thành hàng hoá. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để biến thành tư bản, tuy nhiên, để tiền biến thành tư bản thì lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ phải phát triển ở một mức độ nhất định. Chuyển hoá sức lao động thành hàng hoá là nhân tố đánh dấu một giai đoạn mới của quá trình phát triển sản xuất hàng hoá thành hình thức phổ biến của sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Lao động cưỡng bức phi kinh tế trong chế độ nô lệ và phong kiến ​​đã được thay thế bằng hợp đồng mua bán chính thức giữa chủ sở hữu sức lao động và chủ sở hữu tư liệu sản xuất.

Hai thuộc tính của sức lao động hàng hóa:

Cũng như các hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.

+ Giá trị của sức lao động hàng hoá Nó còn được quyết định bởi thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động. Nhưng sức lao động chỉ tồn tại với tư cách là năng lực sống của con người, để tái sản xuất sức lao động đó người lao động phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định.

Như vậy, thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất sức lao động sẽ được giảm xuống thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh sống đó; nói cách khác, giá trị của sức lao động hàng hóa được đo lường gián tiếp bằng giá trị của tư liệu cung cấp cho quá trình tái sản xuất sức lao động.

Là hàng hoá đặc biệt, giá trị sức lao động hàng hoá khác với công ích ở chỗ nó bao hàm cả yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử. Điều đó có nghĩa là ngoài những nhu cầu về vật chất, người lao động còn có những nhu cầu về văn hóa tinh thần ... Những nhu cầu đó phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ, phụ thuộc vào cả điều kiện địa lý, khí hậu của quốc gia đó và mức độ của sự thỏa mãn những nhu cầu đó phần lớn phụ thuộc vào mức độ văn minh đạt được của mỗi quốc gia.

Mặc dù giá trị của sức lao động hàng hóa bao gồm các yếu tố tinh thần và lịch sử, nhưng đối với một quốc gia nhất định và trong một thời kỳ nhất định, quy mô của phương tiện sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng, do đó giá trị của sức lao động hàng hóa có thể được xác định.

Giá trị của hàng hoá sức lao động được cấu thành bởi các bộ phận sau đây:

Một làgiá trị của phương tiện sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động và duy trì đời sống của người lao động;

Hai làchi phí đào tạo công nhân;

Ba là, giá trị của những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con em người lao động.

Muốn biết sự thay đổi của giá trị sức lao động trong một thời kỳ nhất định phải nghiên cứu hai loại nhân tố có tác động ngược chiều đến sự thay đổi của giá trị sức lao động. Một mặt, sự gia tăng nhu cầu bình quân của xã hội về hàng hoá và dịch vụ, về trình độ học vấn và kỹ năng đã làm tăng giá trị sức lao động; mặt khác năng suất lao động xã hội tăng lên cũng làm giảm giá trị sức lao động.

Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản ngày nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, sự khác biệt của người lao động về trình độ tay nghề, mức độ phức tạp trong lao động và khả năng sử dụng năng lực trí óc của họ càng tăng lên. Tất cả những điều này không thể không ảnh hưởng đến giá trị sức lao động, tất yếu dẫn đến sự chênh lệch giá trị sức lao động theo ngành và theo lĩnh vực của nền kinh tế, nhưng chúng ẩn sau bức tranh lớn. giá trị sức lao động bình quân.

+ Giá trị sử dụng của sức lao động hàng hoá chỉ biểu hiện ở quá trình tiêu hao sức lao động, tức là quá trình lao động của người lao động. Quá trình đó là quá trình sản xuất ra một loạt hàng hoá nhất định; đồng thời là quá trình tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân sức lao động hàng hoá. Phần lớn hơn là giá trị thặng dư bị nhà tư bản chiếm đoạt. Như vậy, giá trị sử dụng của sức lao động hàng hoá có tính chất đặc biệt là nguồn gốc của giá trị, tức là nó có thể tạo ra những giá trị mới lớn hơn giá trị của chính nó. Đó là điểm mấu chốt để giải thích mâu thuẫn của công thức chung của tư bản.

[rule_{ruleNumber}]

Bạn thấy bài viết Sức lao động và Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu  không hãy comment góp ý thêm về Sức lao động và Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động bên dưới để https://hubm.edu.vn/ có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website ĐH KD & CN Hà Nội

Nguồn: ĐH KD & CN Hà Nội

#Sức #lao #động #và #Hai #thuộc #tính #của #hàng #hóa #sức #lao #động

ĐH KD & CN Hà Nội

Trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà nội là một trường dân lập, thuộc Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, được phép thành lập theo Quyết định số 405/TTg, ngày 15/6/1996 của Thủ tướng Chính phủ. Trường chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hệ thống văn bằng của Trường nằm trong hệ thống văn bằng quốc gia. Ngày 15/09/2006 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 750/QĐ-TTg về việc đổi tên trường thành Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button